Tuyển Tập truyện Ngắn "Đôi Mắt" (1)

Thảo luận trong 'Truyện ngắn' bắt đầu bởi administrator, Thg 3 19, 2011.

  1. administrator

    administrator Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    Thg 3 14, 2011
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Giới tính:
    Nam
    NỖI NHỚ

    [​IMG]

    Sáng thứ hai Feb. 27, 2006 bầu trời Santa Ana Nam Cali tràn mây xám, gió thổi hơi mạnh lùa cơn lạnh thấm qua áo khoác ngoài và dường như sắp có mưa. Tôi bước ra khỏi xe sau khi đã cho xe vào chỗ đậu trước cửa California super Market tại cuối đường Magnolia và Garden Grove để chờ Mỹ Thanh, vì nàng đã vào chợ mua một loại rau hiếm bán tại chợ Việt Nam, San Jose, và rẻ trong chợ này.
    Đứng trên bãi đậu xe trong cơn gió lạnh, tôi tò mò theo dõi bà cụ đang chậm chạp thò tay vào túi vải lấy ra một miếng giấy cẩn thận đọc, sau đó lại chậm chạp mở túi vải nhét miếng giấy vào một cách cẩn thận. Bà đứng ngó quanh với dáng điệu lo lắng bị lạc lối, và cứ thế lập đi lập lại những hành động tìm đường trong ký ức. Bà cụ đã mấy lần bà đẩy chiếc xe chợ đi một vài bước, móc mảnh giấy trong túi vải, nhét lại miếng giấy vào túi, rồi đứng lại ngó quanh miệng lẩm bẩm cầu phật độ...!
    Tôi bước tới bên bà và nhận thấy càng lúc bà cụ càng thêm bối rối. Tôi hỏi:
    - Thưa bác, cháu có thể giúp bác được gì không?
    - Lạy Phật, ông là người Việt Nam? Bà cụ vui mừng nắm lấy cánh tay tôi .
    - Dạ, cháu người Việt mà.
    - Vậy mà lúc nẫy tôi cứ tưởng ông là người Nhật cơ chứ !
    - Tại sao bác lại nghĩ cháu là người Nhật ?
    - Ông không biết à? Đây là chợ của người Nhật, người Nhật đi chợ này thôi.
    Tôi cúi đầu chào bà cụ, và sau khi nhìn kỹ bà cụ, tôi ân cần nói với bà.
    - Cháu tên Nguyên. Bác coi cháu như con đi, gọi cháu bằng ông cháu nghe không quen, và tuổi bà cũng gần bằng tuổi mẹ cháu rồi..!
    - Mấy người bạn già gọi tôi là bà Hoàng, tên chồng của tôi đấy.
    Sau khi nói tên, bà Hoàng nhìn tôi vẻ thiện cảm :
    - Bà cụ thân sinh ra anh bao nhiêu tuổi?
    - Dạ thưa mẹ cháu năm nay 94 tuổi rồi.
    - Bà cụ thọ quá nhỉ! Tôi năm nay 87 rồi đấy. Nhưng sống thọ quá ở xứ người này buồn lắm..! Bà thân sinh của anh bây giờ ở đâu?
    - Dạ, ở với cháu. Nhưng đã về Việt Nam chơi với các em cháu hai tháng nay rồi..!
    Bà Hoàng ngước mặt nhìn tôi vẻ ngạc nhiên, sau đó cúi đầu với một giọng buốn bà nói:
    - Lạy Phật...! Thật quí hoá quá, bà cụ còn có anh để nương tựa, còn tôi thì có con mà như cô độc một mình...! Buồn lắm anh ạ..!
    Tôi đẩy chiếc xe cho bác Hoàng, trong khi vừa đi tôi vừa an ủi:
    - Chắc mấy anh chị con bác bận đi làm, bác ở nhà một mình nên buồn đó thôi. Mẹ cháu cũng vậy, nên mẹ cháu đã vừa về Việt Nam ăn tết, và không muốn qua nữa.
    - Phải đấy qua đây làm gì nữa...! Xứ lạ quê người buồn lắm...!
    Tôi nhạc nhiên nhìn bác Hoàng sau khi nghe bác nói, và tôi hiểu tại sao người gìa lại muốn quay về quê để an nghỉ cuối đời, cũng như cha mẹ tôi cố gắng đút lót tiền bạc cho nhân viên chính quền Cộng Sản để lo cho ba gia đình người em trai tôi qua Mỹ với diện ODP do tôi bảo trợ năm 1978. Sau đó cha mẹ tôi đều ao ước quay về Việt Nam, mà ở đó cha mẹ tôi thường nói với con cháu : Quê mình đất ấm hơn, và ở Việt Nam tuy nghèo nhưng có tình hàng xóm và gia đình có tôn ti hơn ..! Ở Mỹ con cháu chẳng thưa gởi gì cả, chỉ You với me không hà...!
    Sau khi tôi mở túi vải nhỏ của bác hoàng, bỏ kẹp rau thơm vào túi và thắt lại cẩn thẩn cho bác. Tôi sách túi vải, đẩy chiéc xe vào một góc bên ngoài chợ và bước tới chỗ bác
    Hoàng đang đứng tựa trên cái gậy chờ tôi quay lại. Tay phải bác nắn lấy cách tay trái tôi, tay trái bác chống cây gậy dựa vào tôi bước đi. Tôi nhìn bác ái ngại hỏi:
    - Xe bác ở đâu cháu đưa bác tới.
    - Tôi làm gì có xe, tôi đi xe bus. Bác Hoàng lắc đầu trả lời.
    - Vậy bác ở đâu? Bác biết lối về không?
    - Tôi ở gần đường Bolsa và Magnolia, tôi tìm chỗ xe bus, anh biết chỗ xe bus đậu rước khách không? Anh dẫn tôi tới đó nghe.
    Tôi dừng lại nhìn bác Hoàng, và nhìn vào cửa chợ để xem Mỹ Thanh đã ra chưa, trong khi bác Hoàng nhìn tôi hỏi.
    - Anh không muốn dẫn tôi đi tìm trạm xe bus à?
    Tôi lắc đầu.
    - Đâu có, cháu sẽ dẫn bác tới trạm xe bus, nhưng chắc chắn bác biết đường về và xuống xe bus hay không?
    - Tôi biết số xe bus chạy về Bolsa, số 636. Anh cứ dẫn tôi tới là tôi biết đường về.
    Tôi dẫn bà Hoàng trở về chỗ xe tôi đậu chờ Mỹ Thanh. Tôi mở cửa xe và giúp bác ngồi vào trong ghế. tôi nói với bác, sau khi bác đã ngồi vào trong xe.
    - Cháu sẽ đưa bác về ngã tư Bolsa và Magnolia, nhưng cháu còn chờ vợ cháu ra đã, bác ngồi trong xe tránh lạnh nghe.
    Mặt bác Hoàng tươi hẳn lên, bác ôm lấy tay tôi :
    - Trời phù hộ, tôi gặp phật sống..!
    - Trời đất bác nói gì lạ vậy? cháu thấy bác già như mẹ cháu nên giúp bác về nhà thôi, có gì đâu. Cháu sợ bác lạc thì khổ cho bác và cho anh chị con bác..!
    Mặt bác Hoàng nặng chũng buồn.
    - Tôi có con mà như không! Tôi làm cái gì cũng một mình, chúng nó chẳng giúp gì được cả. Ở xứ Mỹ này tuổi già khổ thật...!
    - Chắc các anh chị con bác bận làm ăn.
    - Đứa con trai tôi thì ở xa mãi đâu tôi không biết, tôi ở với con gái, nhưng vợ chồng nó cũng đi làm bận rộn tối ngày để lấy tiền trả tiền nhà, và nuôi hai đứa con đang đi học. Tôi phải ở một mình trong nhà. Buồn lắm anh à..! Tiền già của tôi, tôi cũng cho tụi nó đẻ trả nợ đủ thứ... Ơ Mỹ này chỉ thấy tối mặt đi làm có sướng gì đâu...!
    - Nhưng có tự do..! Chiều hai anh chị con bác và các cháu sẽ về, như vậy là vui rồi.
    Bác đừng suy nghĩ gì nữa, kẻo bệnh thì khổ cho cả nhà đó bác.
    Bác Hoàng nhìn tôi lắc đầu, và thở dài như muốn khóc.
    - Hai đứa con tôi đi làm từ sáng tới tối mới về! Khi chúng nó về thì tôi đã ăn cơm nguội một mình rồi, và đã vào phòng niệm Phật cho tới khi mệt ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Có khi cả tuần mới nhìn thấy mặt con mặc dù ở chung một nhà...! Có khi tôi nghĩ dại lỡ bị gió độc chết bất tử hai con tôi cũng chẳng biết, và tới khi chúng tan sở về nhà mới hay...!
    - Nhưng bác sẽ có hai cháu để vui vào buổi tối trong khiò anh chị con bác về.
    Bác hoàng quay nhìn tôi, bác nói như than vãn.
    - Hai đứa cháu của tôi thì lại không nói được tiếng Việt, chúng nói tiếng Anh với tôi, nhưng tôi đâu có hiểu tụi nó nói gì. Bởi vậy có cháu cũng như không, chẳng ôm ấp tụi nó được mà cũng chẳng biét nói gì cho tụi nó hiểu ! Chúng nó xa lạ cả với tôi...! Tôi sống cũng như không sống. Tôi giống như cái bóng trong gia đình vậy, già rồi mà lang thang, làm cái gì cũng một mình.. rồi lẩm cẩm không nhớ được nữa..!
    Tôi hỏi bác Hoàng.
    - Dường như bác người Bắc?
    - Phải, tôi sinh ở Hà Nội, Chợ Mơ cuối đường Bạch Mai đấy.
    - Ồ..! cháu cũng ở đường Bạch Mai.
    Bác Hoàng vui vẻ hẳn ra, bác giật tay áo tôi hỏi
    - Anh ở chỗ nào trên đường Bạch Mai.
    - Dạ, cháu ở ngõ hẻm Thănh Long trước cổng phi trường quân sự Bạch Mai và gần rạp hát Thăng Long.
    - Vậy là nhà anh chỉ cách nhà tôi khoảng cây số, khi còn trẻ trước năm 1954 tôi bán vải trong chợ Mơ đấy. Gớm cái chợ gì mà lầy lội về mùa mưa thu kéo dài cả tháng. Chắc năm 54 anh còn nhỏ lắm không nhớ hết đâu.
    - Dạ đúng, nháu nghĩ rằng cháu nhớ nhiều, nhưng thực chẳng bao nhiêu.
    Bác Hoàng như được mở lòng sau những ngày lủi thủi trong bốn bức tường không ai chuyện trò, bác vui hẳn ra và luôn miệng nói về những dĩ vãng xưa với giọng buồn dựng lệ:
    - Trước 54, tôi còn trẻ lắm, mới 19, 20 thôi, tôi chạy du kích từ quê vào thành một mình, anh em thất lạc anh chị em, tới bây giờ tôi vẫn chưa tìm lại được anh em tôi. Tôi lang thang khắp phố Hà-Nội chịu biết bao nhiêu khổ cực đói khát..! Có lúc đói quá phải đi xin ăn đấy...! Ngày đó tôi làm người ở cho một ông quan Tây, ông quí tôi lắm vì tôi biết chút chữ..! ông nhà tôi người Hà-Đông là lính đi theo ông quan Tây, thế là chúng tôi thường gặp nhau và lấy nhau đấy...! Chẳng có đám cưới đám hỏi gì ráo...! Tôi theo ông nhà tôi ra ngoài ở, và ông nhà tôi mua sập vải cho tôi buôn bán ở chợ Mơ đấy.
    - Chắc bác nhiều con lắm phải không? Tôi ngắt lời bác Hoàng.
    Bác Hoàng lắc đầu.
    - Tôi ba trai hai gái, nhưng hai thằng lớn đã chết trận trước 75 rồi, Một thắng chết ở
    An Lộc, con một thằng... người ta nói là lào.. lào gì đó..!
    - Bác muốn nói tới Hạ Lào ?
    - Đúng rồi...! Bỗng bác Hoàng sụt sùi trong nước mắt - Đứa con gái lớn chết năm 75 ngay trong nhà vì mảnh B40 nổ ở ngoài đường, nó bỏ lại mấy đứa con cho em chồng nó nuôi, bây giờ tôi cũng chẳng biết mấy cháu của tôi ra sao và ở đâu..! Vì chồng con gái tôi là lính biệt động gì đó, nên nó phải đi tù cải tạo chết đâu không biết, chẳng tin tức gì.! Bây giờ chỉ còn hai đứa. Thằng con trai bảo trợ tôi qua đây, nó bỏ tôi lại cho em gái của nó, rồi nó đi làm ở đâu tôi cũng không biết, còn con gái tôi thì lại đang định bỏ tôi vào nhà dưỡng lão vì nó sợ tôi già ở nhà một mình nguy hiểm. Tôi buồn lắm anh ạ..!
    Bác Hoàng chợt bật khóc, bác vừa khóc vừa nói.
    - Bà thân sinh anh còn có chỗ về, tôi bây giờ hết cả đường về, bỏ thây nơi xứ người thôi...! Tôi buồn lắm ...! Tôi có nhà ở Sài Gòn để lại cho người em họ, nhưng không về được rồi..!
    - Vậy tại sao bác lạc xuống đây?
    - Tôi đi làm giấy tờ đã bị mất mấy ngyà trước ở văn phòng gần đây, không ai đưa đi, tôi đi bằng xe bus và ghé đây mua rau, nhưng khi ra tôi quên chỗ xuống lúc nẫy.
    Tôi ngạc nhiên hỏi bác Hoàng.
    - Nếu vậy làm sao mà bác biết được chi tiết ra sao mà làm giấy tờ?
    - Thì tôi cứ mang hết giấy tờ của tôi, rồi đưa cho bà thư ký. Bà thư ký bảo tôi ngồi chờ, và tôi ngồi chờ cho đến khi bà thư ký bào tôi xong rồi, thế là tôi cầm lại giấy tờ do bà thư ký đưa và đi về thôi.
    - Sao bác không nói với con bác để anh chị ấy đi lo dùm bác.
    Bác Hoàng thở dài.
    - Toi đã đi làm nhiều lần rồi, lần nào cũng xong cả. Tôi bảo con tôi chở đi làm giấy tờ thì chúng nó nói rằng con bận lắm, để bữa khác sẽ chở đi. Tôi chờ tụi nó thì nóng ruột nên mò đi làm một mình, thế mà cũng xong...!
    - Nhưng nguy hiển lắm đó bắc biết không ? Tôi nhìn thẳng mặt bắc Hoàng và hỏi.
    Bác Hoàng lắc đầu, vẻ bình tĩnh.
    - Chẳng sao đâu.. Tôi già rồi ai mà lừa tôi chứ? tiền tôi đâu có mà lừa làm chi?
    - Nhưng bác sẽ đi lạc, hoạc bị xe đựng đó. Cháu sẽ đưa bác về chỗ bác muốn.
    - Vậy thì tốt quá.
    Khi Mỹ Thanh ra tới xe nàng ngạc nhiên thấy bác Bác Hoàng ngồi trong xe. Tôi ra dấu giới thiẹu:
    - Bác Hoàng, đây là vợ của cháu.
    - Chào cô, Cô còn trẻ quá hả. Anh Nguyên có ý chở tôi vè góc Bolsa và Magnonia.
    Bác Hoàng vui vẻ nói.
    - Trời đất...! Bác tuổi như vầy mà đi xa quá vậy? Bác sẽ lạc như mẹ cháu là khổ cho con cháu đó.. Lần sau bác đừng đi xa như vậy nữa nghe.
    - Ủa, bà cụ của cô ở đâu mà đi lạc ?
    - Mẹ chồng cháu năm nay hơn chín mươi rồi, cũng như bác bây gìờ, ở nhà buồn rồi ra khỏi nhà đi lung tung, ra tới phố cách nhà mười mấy miles, nên đã đi lạc một lần giữa cơn mưa lạnh trên San Jose, bữa đó mà không có người làm phước đưa về là chết cóng luôn. Mỹ Thanh phân bua.
    Bác Hoàng nhìn Mỹ Thanh hỏi.
    - Thế bữa đó cô không có nhà à ?
    - Sau khi ba cháu mất, mẹ cháu ở nhà một mình khi chúng cháu đi làm.
    - Đấy! Hai vợ chồng thằng rể tôi cũng vậy đó. Chúng nó đi làm, con chúng đi học.
    Tôi một mình ở nhà như ở tù vậy cô à..!
    - Mẹ cháu cũng nói vậy, nhưng vì cuộc sống con cái mới phải làm vậy thôi, chẳng ai muốn bỏ cha mẹ già ở nhà một mình cả...!
    Tôi nhìn kính chiếu hậu thấy bác Hoàng ngồi thu mình vào lòng ghế, mắt nhìn ra ngoài cửa xe, như cố quan sát đường về, bỗng bác quay lại vỗ vai Mỹ Thanh hỏi.
    - Khi về già cô có muốn về Việt Nam ở không ?
    Mỹ Thanh quay nhìn bác.
    - Cháu cũng chưa biết ra sao, có thể khi về già cháu sẽ đổi ý như mẹ cháu vậy. Mẹ cháu về ở luôn bên đó rồi...! Chỉ vì nhớ quê và con cháu còn lại bên đó.
    Giọng bác Hoàng bỗng trở nên buồn diệu vợi, bách nói:
    - Tôi thì muốn về lắm nhưng đã không còn về được nữa rồi. Tôi muốn về Hà-Nội để nhìn lại chợ Mơ, nhìn lại hồ Hoàn Kiếm có con rùa, Hàng Ngang, Hàng Đào, Vườn hoa Con Cóc, Quốc Tử Giám và làng tôi mà tôi đã bỏ lại trước năm 54, ấy vậy mà mấy mươi năm rồi vẫn không về được...! Bây giờ lại càng xa hơn.. Mẹ chồng cô có phước, bà còn về nhìn lại quê hương ở cuối đời..! Tôi già quá rồi đành bỏ xác xứ lạ thôi cô à...!
    - Bác có thể về được mà..! Bác nói anh chị con bác đưa về...!
    Bách Hoàng lắc đầu.
    - Nhưng sau khi về tôi ở với ai..! Tôi không còn ai ổ Hà Nội hay Sài Gòn nữa, về quê thì sợ lắm, tôi nhớ lại thủa chạy loạn và nhìn thấy Việt Minh thì chết run lên đấy cô! Tụi nó giết người cướp của ghê lắm...! Bỗng bác Hoàng lấy vạt áo lau nước mắt, trong khi bác tiếp tục nói: Du kích gõ cửa nhà tôi nửa đêm khi tôi còn con gái và bắt cha tôi ra đồng chặt đầu, mẹ tôi chạy theo nó dùng dao đâm bà rồi đẩy xuống ao. Sau đó chúng kéo tôi theo và đằn tôi ra giữa ruộng lúa làm nhục tôi. Khi tôi tỉnh lại tôi sợ làng xóm biết tôi đã bị chúng làm nhục, và cũng vì sự sợ hãi nên tôi đã bỏ làng bỏ anh em đi luôn trong đêm đó không về nữa! Xác cha mẹ tôi, tôi cũng không biết chúng bỏ đâu...!
    Tôi nhìn bác Hoàng qua kính chiếu hậu.
    - Xin lỗi bác, Quê bác ở đâu ? Bác còn nhớ không ?
    Bác Hoàng gật đầu.
    - Tôi nhớ chứ, Tôi làm sao qên được chứ ! Nhưng khổ là không thể về được. Tôi sinh ra ở làng Bái Đô đấy! Làng tôi ruộng lúa bao quanh, khi còn thanh bình mỗi lần được mùa là dân làng vui lắm cơ...!
    - Vậy là làng bác ở gần làng cháu.
    Bác Hoàng vội chồn lên võ vai tôi như mừng rỡ.
    - Vậy à...! Qui hoá quá nhỉ...! Vậy làng anh tên gì?
    - Thành Lập.
    Tôi thấy bác Hoàng yên lặng vài phút, sau đó bác như nhớ ra điều gì, rồi lại như quên điều gì, bác lẩm bẩm một mình.
    - Thành lập... Thành lập... Bái Đô... Bái Vàng...Hoàng Nguyên... Hà Nội...!
    - Bác quên rồi anh, đừng hỏi bác nữa. Mỹ Thanh nói với tôi.
    - Đúng, Đa số ông bà già trên 80 đầu óc như cái máy recoder đã thâu vào băng nhựa. Bây giờ đôi lúc phát ra nhớ lại như player. Nhưng cái máy đã không thể thâu thêm được nữa vì máy đã cũ và bộ nhớ đã đầy, nên họ đã không nhớ được những gì đã sẩy ra vài ngày trước..!
    Trong khi tôi nói chuyện với Mỹ Thanh thì bác Hoàng vỗ vai tôi một cách vộïi vàng. - Đã tới rồi anh Nguyên, làm ơn cho tôi xuống đây được không ?
    - Dạ để cháu cho xe vào cây xăng bên phải gần chợ ABC để mua xăng, và bác sẽ xuống xe tại đó để bác về nhà. Bác nhớ đường vể không ?
    - Vậy thì may quá..! Anh lái xe vào cây xăng đi, tôi nhớ chứ...!
    - Dạ. Cầu ơn trên cho bác được an bình.
    - Cám ơn anh chị nhé...!
    Sau khi gài vòi xăng, tôi giúp bác Hoàng phương hướng về nhà và quay lại đường Magnonia để về I-22 East cho chuyến đường dài San Jose- Santa Ana. Tôi nói với Mỹ Thanh:
    - Em thấy không, tuổi già xứ lạ...! Tuy rằng tuổi đã thật sự về chiều, chẳng còn gì để nhớ để mong như thày mẹ và bác Hoàng, nhưng trong nỗi sâu thẳm của linh hồn, lòng họ vẫn chia ra hai mối quê hương và xứ ngoại. Đời sống phồn hoa thanh bình như Mỹ nhưng họ vẫn không màng, thâm tâm họ nhất định hạnh phúc phải là nơi xa xôi chôn nhau, cắt rốn nghèo đói quê nhà khổ nhục, mà ở đó có vạn nỗi nhớ thỉnh thoảng hiện ra trong trí như những đợt sóng sương mờ đang mất dần, và tàn lụn ở cuối đời...!
    Mỹ Thanh thở dài:
    - Quê hương mình mà anh..! Ai mà không có nỗi nhờ, nỗi mong...!
    Cũng chính vì những nỗi nhớ, nỗi mong này, đã trở thành cái cầu nối kết với quê hương cho thế hệ con cháu trở về để xây dựng đất nước khi chế độ độc tài CS đã cáo chung, anh hãy chờ xem..!

    San Jose July 28, 2006
    Chinh Nguyên
     
  2. administrator

    administrator Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    Thg 3 14, 2011
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Giới tính:
    Nam
    Giọt Buồn

    GIỌT BUỒN

    [​IMG]


    Sau khi tới Hà Nội ngày 15 tháng 11năm 2006 và trọ tại Hotel Khải Hoàn phố Cửa Đông, buổi chiều cùng ngày tôi gọi điện thoại thăm Bác Hải, người đồng chí với cha tôi trong VNQĐD chống Việt Minh, và Thực Dân Pháp vào những năm 1940-1950.
    Bác rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói của tôi Bắc, Nam không rõ ràng của miền nào.
    - Chào ông, Tôi Hải đây! Xin lỗi ai đấy giọng nói củ anh tôi chưa nghe bao giờ ?
    Tôi yên lặng vài giây, xúc động khi nghe được tiếng bác Hải, và sực nhớ tới những ngày còn bé tôi luôn được cha sai canh cổng mỗi lần bác tới nhà, để bác và cha tôi họp trong buồng ngủ của cha mẹ tôi. Sau khi họp bác và cha tôi ra phòng khách ăn cơm và nói những chuyện không đầu đuôi hầu chờ đêm xuống lẻn bác ra cổng lẫn vào bóng tối thoát đi về hướngnào tôi không hay.
    Tôi chưa nhìn thấy bác nhưng qua giọng nói, tôi biết bác đã như con ngựa già đứng bên máng cỏ trong sự chán nản bức chế của chế độ Cộng Sản, mà bác đã sống một đời như tù lỏng.
    Bác đang chờ thời gian ra đi vĩnh viễn bỏ lại chuỗi ngày tuổi trẻ đầy nhiệt huyết năm xưa. Cái tuổi mà cha tôi và bác thời 25, 30 tuổi với nhiều mộng ước đầy ắp trong lòng như mọi người dân Việt yêu nước mong cho quê hương được an bình thịng vượng, và trở thành con rồng kinh tế muốn vượt mây bay vào trời Đông, nhưng thế thời đổi thay và lòng người oan nghiệt, cha tôi đã ra đi nơi xứ lạ để lại lời trối trăn cuối cùng vẫn là quê hương nghìn trùng muốn quay đầu lại.
    Bác Hải còn đó với những năm dài sống dưới chế độ khủng bố hà khắc nhà tù cả nước nhưng vẫn giữ lòng như tre trúc, một mai bác cũng héo tàn với ước mong tiêc nuối đã vượt khỏi tầm tay.
    Tôi chắc rồi cũng vậy...! Lại bước theo chân cha, và bác Hải, nửa đời son trẻ mang ước vọng tay súng chinh nhân, góp sức an bình đất nước, nhưng nửa đời còn lại mang thân tầm gởi sống nhờ xứ ngoại với nghiệp chướng oan khiên...!
    Đời tôi cũng sẽ tàn phai theo ngày tháng, cái trí dũng cũng bạc nhược theo đôi chân mỏi lưng còng.
    Cha tôi, và tôi sẽ chẳng còn gì để níu kéo, họa chăng chỉ còn nỗi niềm nhớ kỷ niệm xưa vàng son một thời, nhưng trí không thành đành buông suôi ra đi, nhưng bác Hải đã phải sống dưới chế độ Cộng Sản cả đời như con hổ trong cũi của Thế Lữ, nhìn cuộc sống của những người chung quanh, cũng như chính bác bị kềm kẹp dưới chế độ tàn ác độc tài mà nhắm mắt không nguôi cơn hận thù.
    Tiếng bác bên kia đầu giây có vẻ vội vàng:
    - Vâng, tôi Hải đây. Có nghe được không?
    - Dạ, cháu nghe được. Chào bác Hải.
    Bác Hải ngạc nhiên, khi nghe tiếng người lạ gọi tên ông trong những ngày tuổi trẻ hoạt động.
    - Ai đấy? Sao tiếng nói lạ quá...! Sao biết tên củ của tôi vậy ? Cháu nào vậy ?
    Tôi nhỏ nhẹ nói chậm để bác nghe rõ, vì tôi nghĩ bác đã lãng tai như cha tôi khi còn sinh thời:
    - Dạ cháu là con ông Ký Tình. Cháu tên Trống
    Vừa nghe tới hai chữ Ký Tình, bác dường như mừng với những câu hỏi liên tục :
    - Thằng Trống... lạy trời ? Cháu ở đâu vậy? cha cháu ra sao ? khoẻ không ? Sao cháu biết số phone của bác ? Chắc cháu lớn lắm rồi nhỉ ? Ta đang ngồi chờ cha của cháu về...!
    Tôi bùi ngùi xúc động nghe bác nói chờ cha tôi về. Tôi nghẹn ngào rơi nước mắt trả lời bác Hán:
    - Cha cháu mất ba năm nay rồi..!
    Bên đầu giây bác Hán bỗng yên lặng và dường như máy điện thoại bị rơi xuống sàn nhà vì có tiếng động mạnh. Tôi nghe tiếng thở dài của bác, và sau đó là tiếng nói trĩu buồn buông suôi...!
    - Chết trong Nam à ? Vậy mà ta cứ ngồi chờ mãi..! Ta chờ bố của cháu về..!
    - Không, cha con mất tại Mỹ.
    - Ồ...! Bố con cháu bỏ làng đi ngày đó, ai ngờ đi xa quá nhỉ...! Xa quê hương, làng nước chắc buồn lắm cháu nghỉ...! Mấy chục năm rồi...!
    - Dạ, bố cháu nhắc bác hoài...!
    - Mẹ cháu còn không ?
    - Dạ, mẹ cháu hiện nay đang sống tại BMT, với các em của cháu.
    - Không sống ở Mỹ à ?
    - Dạ, mẹ cháu sống ở Mỹ hơn hai mươi năm, sau khi cha cháu mất mẹ cháu đòi về Việt Nam.
    - Ồ...! Quê hương mình vẫn hơn...! Quê người lạc lõng mẹ cháu về là phải. Thế cha cháu nằm bên đó thì sao ?
    - Cháu đang nghĩ tới mang xác cha cháu về quê như lời trối lại của cha cháu...!
    - Cháu làm được như vậy thì cũng tốt đó. Ta sẽ đi nay mai chẳng biết chừng...! Ta hết kẻ để chờ rồi...! Bạn bè đồng chí không còn ai...!
    Tôi nghe tiếng thở dài bên kia đầu giây, sau sự im lặng vài phút bác tiếp:
    - Bác với bố cháu thương nhau lắm. Thời hoạt động kháng chiến bố cháu làm thư ký nên bố cháu có cái tên là Ký Tình, nhưng bố cháu tên thật không phải là Tình đâu.
    - Dạ, cháu có nghe bố cháu kể lại.
    - Bố cháu nhắc tới ta cho cháu nghe là phải, ta cũng nhắc tới bố cháu luôn, đồng chí liên tâm mà...! Ta chỉ mong thấy bố cháu một lần, ai ngờ bố cháu đi trước ta rồi. Chắc chết chúng ta sẽ gặp nhau...!
    - Dạ.
    - Thôi nhé...! Nói điện thoại bác phải nói lớn mệt lắm, cháu tới nhà bác, rồi bác cháu mình nói chuyện nhé.
    - Dạ.
    - Cháu có biết địa chỉ không ?
    - Đạ cháu có địa chỉ của bác
    - Ai cho cháu vậy ?
    - Anh Lương.
    - Lại thằng Lương, con thằng Nhẫn...! Bốn anh em chúng nó là Cộng Sản, có quân hàm lớn đó cháu biết không ?
    - Dạ, mẹ cháu nói.
    - Ừ... Thôi, ta già rồi, nhìn thấy chúng nó lớn lên từ nhỏ, nên không đành từ chúng nó, hơn nữa chúng là con cháu cả, cũng như cháu vậy đó.
    Chúng không làm gì bác, vì bác gìa rồi, nhưng cháu thì phải coi chưng đó nghe. Nếu cháu theo chân cha cháu mà chúng biết được thì nguy.
    Tôi nghĩ tới mấy người anh họ, mấy mươi năm mới gặp qua lời giới thiệu của mẹ khi vừa gặp họ ở BMT, vì khi tôi bỏ làng họ chưa sinh ra. Anh em gặp nhau, kể cho nhau nghe vài chuyện bâng quơ thiên hạ sự xã giao không dính líu gì tới chính trị. Tôi tiếp họ bằng những ly trà đàm đạo thân mật chuyện gia đình trong Nam, ngoài Bắc và nước Mỹ. Sau khi họ về nhà mẹ vẫy tôi lại gần, bà ôm đầu tôi và ghé tai thi thầm :
    - Con phải cẩn thận nghe. Tụi nó quỉ lắm đó, chớ có tin cái thứ Cộng Sản bất nhân ! Cha con còn bị thằng quỉ Nhẫn muốn giết thì con tụi nó nể nang gì con...! Tụi nó là con của thằng Nhẫn đấy...!
    Tôi không muốn bác Hải phải lo lắng nên gỉa bộ cười qua ống nghe và nói:
    - Bốn người anh Khuông, Lương, Kho, Nhạn là anh em họ phía bên mẹ của cháu, chắc không có chuyện gì đâu. Giọt máu đào hơn ao nước lã mà bác..
    - Đúng, tụi nó là anh họ của cháu đó, tuy nhỏ tuổi hơn cháu, nhưng chớ tin nghe cháu, Khác nhau chính kiến khó nói chuyện lắm, nhất là những thằng Cộng Sản không gia đình tổ quốc như bốn anh em nó. Cha chúng nó đòi xử tử cha cháu ngày đó, nên cha cháu mới đành bỏ làng, cháu biết không ? Thôi bác gác máy, cháu tới bác nói cho nghe, nói qua điện thoại ở Hà nội này không tiện đâu. Chúng nghe lén tất cả...! À quên thằng Khuông có biết cháu về VN và đang ở Hà nội không?
    - Cháu vừa gợi điện thoại cho anh Khuông.
    - Cháu bảo nó chở tới ta nhé, nhớ đó.
    Tôi gấp lại cell phone trong khi lòng trùng xuống với những kỷ niệm như một phiến buồn đè nặng trên lưng mà tôi không thể hất ra để đứng dậy..!
    Lời nhắn nhủ của mẹ, câu dặn dò của bác Hải cho tôi để làm kinh nghiệm sống đối với những người con của bác Nhẫn cuốn xoáy trong trí, và hầu như đã bắt buộc tôi phải có sự lựa trọn :Tình thân anh em hay thù hận nối dòng giữa hai chính kiến Quốc Cộng...!
    Tôi sực nhớ câu ông nội dặn khi tôi vừa tám tuổi : "Cháu phải nhớ, chớ coi con cháu thằng Nhẫn là anh em, dù ông đã mất đi...!"
    Tôi thở dài tự nói thầm : Ông à, chắc con không thể giữ lời hứa với ông ngày đó rồi...! Mỗi thế hệ mỗi đổi thay... Con không thể mất đi tình người, anh em như thủ túc mà...! Cha con cũng nói rằng : Chú, Bác của con có thể giét cha, nhưng cha không thể làm những gì chúng có thể làm, vì cha còn tình người...!
    Tài xế của anh Khuông mặc bộ đồ bộ đội xanh rêu phân ngựa, đầu đội mũ "cát kết" cùng màu có ngôi sao đỏ chói gắn phía trước trên cái lưới chai, anh ta có vẻ cố tình giữ khoảng cánh giữa tôi và anh ta từ khi mới gặp. Tôi hỏi điều gì anh ta trả lời, nếu tôi không hỏi, anh ta yên lặng làm bổn phận như người máy. Suốt quãng đường từ Hotel Khải Hoàn tới Phố Huế anh ta chỉ nói có hai chữ dạ, vâng và lái xe đưa tôi tới nhà bác hai Hải vào buổi chiều sau ngày tôi điện cho bác. Tôi tặng người tài xế của anh Khuông năm đô la để nhìn hành động của anh trước khi tôi bước xuống xe để vào nhà bác Hải, và để tìm hiểu người Cộng Sản có bị tẩy não vì đồng đô la hay không.
    Tôi thấy mắt anh ta sáng lên, miệng anh ta lúc này mới mỉm cười thân thiện và cúi đầu nói được câu ngắn gọn:
    - Cám ơn ông, Nhưng ông đừng cho ai biết chuyện này.
    Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta, và lập lại hai chữ của anh Luông thường nói với tôi để nói với anh tài xế tên Thụ .
    Ai mà nói chuyện này với ai..! Chú cứ "vô tư" đi. Tôi mỉm cười nhìn anh Thụ và chợt nghĩ : "Thì ra đồng đô la đã làm người Cộng Sản thay đổi tư duy..." trong ki anh Thụ gật đầu :
    - Dạ.
    Tôi dặn anh Thụ :
    - Anh lái xe về nhà đừng đi đâu nghe, kẻo anh Khuông cứ tưởng tôi lấy xe của anh đi chơi phố.
    - Dạ, cháu không dám lái xe này đi phố đâu. Ông biết được thì chết cháu ngay.
    Bác Hải đã đứng ở cửa nhìn tôi mừng rỡ, bác vừa chậm chạp bước tới bên tôi vừa nói :
    - Nó không dám mang xe đi chơi đâu, cho kẹo nó cũng không dám ăn huống chi mang xe đi chơi.
    Bác với tay vẫy anh Thụ, nói tiếp:
    - Thôi Thụ à, cháu mang xe về trả cho thằng Khuông nghe, thằng Trống ở đây nói chuyện cà kê với ta lúc nào về sẽ gọi xe taxi, khỏi đón.
    Tôi bước vội tới ôm lấy bác Hải như ôm cha tôi với vài giọt lệ xúc động lăn dài trên má. Bác thấy vậy vỗ lưng tôi an ủi:
    - Tủi thân làm gì con...! Bác cháu mình có duyên gặp lại nhau ngày hôm nay là quí rồi, chỉ tiếc vắng cha cháu. Ngày đó cháu nhỏ tí, đen đủi, nhanh như cắt, nay tóc con đã hai màu rồi...! Con giống cha quá, ta nhìn là nhận ra ngay.
    Tôi quay nhìn xung quanh, và thấy có vài người gọi bác bằng cha. Tôi ngạc nhiên hỏi.
    - Ủa, Bác gái có mấy anh sao ? Con nhớ ngày đó bác gái muốn nhận con là dưỡng tử mà...!
    Bác Hải nét mặt bỗng trùng xuống, thở dài:
    - Bà ấy qua đời lâu rồi, sau khi gia đình cháu suôi Nam. Ta trốn Cộng Sản bặt tin trong khi muốn tìm tin tức về cha cháu, thì nghe cha cháu đã dẫn gia đình suôi Nam rồi. Bác thất trí, buồn đi lung tung không về nhà trong khi bà ấy lanh thang khắp nơi kiếm ta rồi mang bệnh mất giữa đường. Ta quay về tìm bà ta thì đã trễ rồi.! Các em sau này là con của người vợ kế của bác.
    - Bác à, anh Khuông bận nên anh xin lỗi bác, để bữa khác anh tới thăm bác.
    Bác hán khoa tay nói:
    - Nó không tới càng hay. Bận cái gì...! Bận việc kéo bè kéo đảng với nhau để bàn chuyện ăn cướp của dân chứ có gì đâu, ta sống cả đời với chế độ này, chúng nó làm gì ta cũng hiểu...!. Ngày mai là ngày ông Bush qua họp APEC, nên nó bận là phải rồi, bận đi lạy lục Mỹ xin ăn đó mà...!
    Sau khi ngồi xuống ghế trong phòng khách tôi hỏi thăm bác vài câu về sức khoẻ và gia đình, tôi chợt nhớ tới chuyện hôm qua bác Hải nói bác Nhẫn muốn xử tử cha tôi nên tôi tò mò:
    - Hôm qua nghe Bác nói anh Khuông là con bác Nhẫn. Nhà bác Nhẫn ở gần cổng nhà bà ngoại cháu phải không ?
    - Đúng rồi, cháu nhớ dai thật.
    - Lúc cháu bỏ làng đã chín mười tuổi rồi, cháu còn nhớ nhiều lắm đó bác.
    - Quê mình nghèo, làng lại nhỏ có bao nhiêu người đâu mà không nhớ...!
    - Bác Nhẫn là anh họ mẹ của cháu. Như bác nói hôm qua, tại sao bác Nhẫn lại muốn xử tử cha cháu vậy ? Cùng gia tộc mà...!
    Bác Hải nhìn ra ngoài trời qua khung cửa sổ, nắng chiều nhạt nhòa, có hơi ẩm của gió thu Hà Nội lùa nhẹ vào phòng, trong khi Phố Huế ồn ào tiếng động cơ của xe gắn máy, và dường như thành phố lớn nhỏ gì của VN sau thời 1975 cũng đều bị tra tấn bằng những tiếng động cơ này lien tục suốt ngày qua đêm. Bác quay lại nhìn tôi với đôi mắt buồn vời vợi, lắc đầu bác nói:
    - Trong làng chỉ có 5 người chắc cháu đã biết là bố cháu, bác, anh Nga là anh ruột của mẹ cháu, anh Quắc đã đổi họ Nguyễn ra họ Đặng sau khi phản tỉnh trốn khỏi khu kháng chiến, và anh Mông. Mấy anh em theo cha cháu vào QDĐ chống Việt Minh, và thực dân Pháp, vì chúng ta và cha cháu được ông bà cho ăn học ở Hà-Nội, trong khi cả làng trai tráng đều học ở làng hoặc huyện tới lớp nhất là hết về làm ruộng nên họ nghe Việt Minh tuyên truyền đi làm du kích chống Pháp, trong đó có chú Quân của cháu và thằng Nhẫn là chủ chốt đầu đàn cả huyện. Như cháu đã biết thằng Quân đã chỉ súng lục vào đầu bố cháu trong khi anh em cãi vã nhau vì khác chính kiến, có điều thằng Quân không bóp cò súng thôi...! Nhưng như vậy là cũng hết tình an hem rồi...!
    - Chuyện này cháu biết, vì lúc đó cháu ở bên bố cháu mà.
    - Còn thằng Nhẫn, lúc đó nó là tiểu đội trưởng du kích huyện Phú Xuyên, nó ra lệnh cho thằng Quân bắn bố cháu, thằng Quân nghĩ sao không bắn, và bỏ đi mất tích sau 1954 nó mới về, trong khi cha cháu bỏ Pháp về làng, rồi khi thấy thằng Quân nhà, cha cháu lại mang gia đình trốn vào Nam.
    - Ngày đó cha cháu dẫn cháu đi suốt đêm qua những cánh đồng lạ, đôi khi đói quá hai cha con phải ăn cắp khoai ngoài đồng hoặc xu hào mang nướng nên ăn. Mà xu hào non nướng ăn ngọt đáo để nghe bác...!
    - Cái kinh nghiêm ăn xu hào nướng ta và cha cháu ăn hoài trong khi trốn Cộng Sản nằm ngoài bờ ngoài ruộng..! Cái thời cha cháu và bác bỏ làng vào thành kể ra thì dài lắm, nhưng đại khái là thằng Nhẫn cho kẻ dưới quyền theo dõi bác và bố cháu sau khi thằng Quân không bắn anh ruột của nó. Bác và bố cháu biết nên chẳng ngủ nơi nào một đêm thẳng giấc. Một đêm bác và bố cháu bất ngờ bỏ làng nửa đêm trốn lên Hà-Nội. Thằng Nhẫn biết thì đã trễ mặc dù nó đã cho tiểu đội dưới quyền nằm nấp sẵn tại ngã ba của ba làng Bái Vàng, làng Vân và làng Hoàng Nguyên.
    - Vậy tại sao bác và cha cháu thoát khỏi chỗ ngã ba đó ? Tôi buột miệng hỏi.
    Bác hai Hải gật gật đầu có ve thú vị khi nghĩ về cuộc chạy đua với tử thần đầy nguy hiểm bởi chính anh em mình gây nên.
    - Cũng may bác và bố cháu đã không đi lối đó, bác và cha cháu đi qua lối làng Trằm lên đê Yên Phụ, nhẩy xuống thuyền trực sẵn vào Gia Lâm, rồi đi bộ qua cầu "Đuy-Me" vào Hà Nội.
    - Bác và cha cháu gan thật.
    Bác Hải bật cười, sau đó nói tiếp trong khi bác lên cơn ho
    - Cha cháu gan hơn ta...! Nếu không có cha cháu thì ta đâu có bỏ làng Thành Lập mà đi.... Cha cháu rủ ta bỏ làng đấy chứ...! Thằng Nhẫn biết bác và bố cháu đã đi, nhưng nó không biết bác và cha cháu đi lối nào, nên nó vội vã chẳng nói gì với toán du kích huyện, cứ thế đuổi theo lối ngã ba làng nhưng không ngờ khi nó tới ngã ba thì chính toán du kích của nó bắn nó tử thuơng trong lúc sương mù không nhìn thấy chính xác là ai. Nhờ đó mấy thằng con của nó lên tướng, lên tá gớm thật...!
    Tôi ngạc nhiên hỏi:
    - Tại sao, bác Nhẫn chết vì du kích bắn lầm mà các anh con bác lại lên cấp bậc mau lẹ trong chế độ Cộng Sản.
    - Cháu không biết là phải. Tụi CS siêu tra ba đời làm cách mạng theo đảng. Mấy đứa nó khai là bố nó bị giết trong khi thi hành nhiệm vụ bắt Việt Gian. Đảng CS tin đó là thật nên tụi nó được nâng đỡ từ 1954 tới nay. Tài cán gì...!
    - Anh Khuông nói với cháu anh có qua Liên Sô và Tiệp Khắc học Đạo Diễn quay phim. Chắc anh phải khá lắm chứ.
    Bác Hải Lắc đầu.
    - Học mà có hành hay không chứ. Nó về VN sau khi du học có làm đuợc cuốn phim nào đâu. Toàn là nghe cấp trên mang phim tài liệu bán rẻ cho Hòa Lan rồi chia nhau tiền, bây giờ nếu cần tới là lại phải trả tiền mướm đắt gấp mấy lần đem bán...! Ngu ơi là ngu...!
    - Cháu đã nghe anh nói bỏ nghề đạo diễn rồi mà...!
    - Đúng..! Mà phim CS quay ai mà coi, toàn chuyện bịa đặt để tuyên truyền không à..! Ta kiên nhẫn coi phim CS làm mấy chục năm rồi, chẳng có gì mới mẻ cả, chỉ những tung hô bác Hồ, chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bám hào quang của Điên Biên Phủ. Nếu có hô hào và bắt buộc dân đi coi phim chiếu ngoài trời để tâm lý chiến thì dân mới đi coi, bình thường đâu có thì giờ mà coi. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc coi cái gì chứ.
    - Dạ
    Bỗng bác Hải hỏi tôi, sau khi tôi đứng dậy chào bác ra về.
    - Bao giờ con về lại bên Mỹ.
    - Dạ, có lẽ sau khi hết ngày khế ước du lịch này là con về Sài Gòn sửa sọan về Mỹ.
    Giọng bác Hải bất ngờ trùng xuống.
    - Thôi, lần này là lần cuối bác cháu mình gặp nhau, đó là cái phước của bác cháu minh rồi. Con luôn giữ lòng nhất tâm nghe... Bác có thể ra đi bất cứ lúc nào. Con về lần sau có thể không gặp bác nữa đâu...!

    - Dạ, con nhớ những gì bác đã nói với con hôm nay...!
    Tôi quay người bước vội qua cửa phòng khách, bước khỏi hiên nhà và rẽ phải để đi bộ về bờ hồ Hoàn Kiếm. Tôi biết bác Hải đứng nhìn theo bước chân tôi chạy trốn bác, chạy trốn sự thật của dòng họ tôi, tôi biết rằng, tôi không thể ôm hận thù cả cuộc đời được như bác, và mẹ, một thế hệ đã dần đi vào quá khứ nhưng cố ôm lấy dĩ vãng oan nghiệt đau thương...!
    Tất cả rồi cũng tàn, tham vọng bá vương rồi cũng bị hủy diệt theo thời gian để thay vào lòng yêu chuộng nhân bản, an bình. Tất cả những gì con người nắm chắc trong tay làm của riêng rồi cũng mất đi và vấn nạn của con người là sinh, lão, bệnh, tử..!
    Cát bụi vẫn là cát bụi phù du..! Tôi chỉ là người lữ khách có lòng về lại quê hương làng cũ muốn xây lại êm ấm tình anh em dòng họ, một ước vọng nhỏ nhoi tình người mà tôi không muốn mất đi ...!
    Xin lỗi cha mẹ, xin lỗi bác Hải, đường con đi sự thật quá dài, và khó khăn trong khi oan nghiệt chính kiến trùng trùng nghiệt ngã trong dòng họ, và người cùng giống. Ai sẽ chĩa mũi súng vào đầu ai đây, và ai sẽ bóp cò súng đẻ giết lẫn nhau...!
    Anh em là thủ túc, dân tộc là phương tiên đựa vào để sống còn, và cá nhân là cứu cánh thực hành những điều nhân bản phải có để con người vươn lên trong tự do toàn thiện mỹ.
    Con muốn xoay lại tư thế và tư duy trong lòng các anh em con để xây dựng một thế hệ trong sáng hơn...!
    Bất ngờ trước mặt tôi là bờ hồ Hoàn Kiếm đông người qua lại, nhưng sắc diện của họ chợp chờn trong bóng tối loang lổ của đèn phố, và dường như có một sự sợ hãi, buồn phiền đè nén trong long mà không ai muốn nói ra..!
    Những ánh đèn màu muôn sắc từ vài cao ốc bên đường quanh hồ soi xuống dòng nước lung linh huyền diệu, và thấp thoáng giữa hồ trong sương thu, với ánh đèn lấp lánh trong sóng nước lăn tăn giữa hồ là đền thờ Le-Lai yên lặng soi hình đã bao năm...!

    Hànội, Phố Huề Nov. 25, 2006
    Chinh Nguyên
     
  3. administrator

    administrator Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    Thg 3 14, 2011
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Giới tính:
    Nam
    Có Phải Là Nỗi đau

    CÓ PHẢI LÀ NỖI ĐAU

    [​IMG]

    Chiếc xe đò Rạng Đông 50 chỗ ngồi đã dừng trong bến đậu của hãng, sau khi tài xế cho xe chạy nửa vòng cung của ngã ba bùng binh đại lộ Lê Xuẩn (Thống Nhất cũ) và con đường mới mở sau 1975, tên Hoàng Diệu.

    Tôi xuống xe, lấy hành lý, bước ra lề đường Lê Duẩn và chăm chú nhìn vào ngôi thánh đường của nhà thờ Quân Đội do sư đoàn 23 Bộ Binh xây dựng, nay đã bị nhà nước Cộng Sản tước đoạt và đổi tên thành một đại lý bia, nghe đâu là của một ông lớn cấp tỉnh ủy Ban Mê Thuột.

    Tuy nhiên, trên khu đất vẫn phảng phất cột trụ gác chuông và cây thánh gía đổ nghiêng về phía sau sân vì chiến tranh tới bây giờ vẫn chưa có ai phá đi.

    Vườn cà phê của ông Huấn mấy chục mẫu, và công viên trước cổng dinh Bảo Đại sát với ngân khố và văn phòng đại diên Cao Nguyên Trung Phần cũng đã bị san bằng để cho những nóc nhà công thự, hay nhà tư nhân có liên hệ với chế độ Cộng Sản, để khoe cái bề mặt gỉa dối trơ trẽn vô lương tâm, hoặc gia đình của những người có tiền tiếp máu từ ngoại quốc gởi về mọc lên san sát dọc theo đường Lê Duẩn, và nhà dân nghèo chằng chịt cái thấp, cái cao với mái tôn rỉ sét lấn chiếm phía sau, không đồng đều lớn nhỏ trải dài trên dốc xuống tận suối Mourier.

    Tôi tự nhủ : Không biết chủ nhân của những ngôi nhà đồ sộ vì tiền nước ngoài gởi về có biết rằng anh, em, cha mẹ của họ đang gạt lệ thắt lòng cố sức làm để có chút tiến gởi về cho anh em, hay cha mẹ già sống xứ ngoại bằng đồng tiền trợ cấp, bòn dành những lon bia bỏ thùng rác, rồi đem bán kiếm từng cắc gởi về cho con hay không !

    Cha mẹ nghèo khổ bên xứ người, lo lắng cho con đói khát, trong khi con ở quốc nội nhởn nhơ đua đòi chờ tiền cha mẹ gởi về đem ra ăn chơi với tụi cám bộ, những đứa con này sao trời để yên vậy !

    Trước năm 1963 dân tộc radê đã dùng dốc chân đồi này làm nơi đua voi mỗi lần mừng ngày song thất (7/7) thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Suối Mourie nước trong mát ngoằn ngòeo chảy dưới chân đồi khuất sau những cây cổ thụ bằng lăng, và khúc suối Mourie này nước cạn chưa tới đầu gối bởi đáy suối đã trơ ra những tảng đá lớn mặt phẳng nhẵn như bàn nối sát nhau nên dân Ban Mê Thuột đã đưa xe hơi, hoặc xe Honda xuống giữa dòng để rửa mỗi mùa mưa rừng, nơi đây cũng là nơi ngươi Radê trên Buôn Alê A dắt voi xuống cho uống nước. Bây giờ Buôn Alê A đã mất, nhường lại cho những người họ hàng với cán bộ Cộng Sản từ Bắc đổ vào dùng quyền hạn ưu đãi lấn chiếm đất của dân tộc thiểu số, đúng với câu : Một người làm quan cả họ được nhờ, hay dân làm chủ đảng quản lý...!

    Tôi dừng lại bên lề đường với chiếc vali nhỏ cạnh chân, lấy phương hướng trước khi kéo chiếc vali nhỏ theo sau. Bỗng chiếc xe Toyota 4 Runner màu nâu đậm chạy sát lề đường gần đụng chiếc vali làm lốc bụi đỏ tung lên hắt vào mặt, và đậu cách tôi khoảng ba bốn mét. Tôi nhìn theo chiếc xe lẩm bẩm những lời bất mãn:
    - Tài xế của xã hội chủ nghĩa có khác..! . Nếu sát chút nữa có thể nó lấy cẳng mình, Nhà giầu tư bản đỏ Việt Nam coi mạng người chỉ bằng vài trăm đô la nếu sảy ra tai nạn ...!
    Tôi chợt nhận thấy Hảo, em tôi bước ra khỏi xe, tiếp theo là anh tài xế và người đàn ông mở cửa bước xuống đi theo Hảo về phía tôi. Tôi nhíu mày suy nghĩ :
    - Con Hảo này thật quá đáng... Gần 60 tuổi rồi, ba thằng chồng đều bỏ xác ngoài trận chiến vì những viên đạn AK ghim vào ngực , năm đứa con rồi mà vẫn bồ bịch lăng nhăng với mấy thằng cán ngố răng đen mã tấu, mất dạy...!
    Tôi chợt nghĩ tới Bình, người chồng đầu tiên của Hảo mới ra trường Thủ Đức về trình diện tại Trung Đoàn 45, cây số 5 lối đi Nhatrang và Pleiku. Thời gian đó Hảo đang có bầu thằng Hùng đứa con đầu lòng, ấy vậy mà chỉ trong vài tháng hành quân, học tập với thực tế chiến tranh, súng đạn mưa rừng, nắng bụi. Tôi đã phải mang chiếc Dog xanh Không Quân chở xác Bình về nhà cho Hảo ngay tại bãi đậu trực thăng của biệt đội trực thăng 215 Thần Tượng trực thuộc Không Đoàn 62 Nhatrang .
    Tôi thương Hảo đứa em mới lấy chồng, ôm đầy hạnh phúc trong lòng nhưng đã vội đội khăn tang trong khi đứa con trong bụng. Tôi tưởng rằng đời Hảo đã yên, nhưng vài năm sau khi mãn tang chồng Hảo lại đi bước nữa với Tùng, Tùng là Sĩ quan Biệt động bạn học của Hảo ngày xưa. Tưởng yên, nhưng chưa yên, số Hảo vẫn không tự mình làm chủ được ha.nh phu c và định mệnh khắc khe, oan khiên bởi chiên tranh! Tùng bỏ lại cho Hảo thêm hai đứa con ra đi vĩnh viễn không kiếm được xác trong trận A-Sao, A lưới. Hảo khóc thảm thiết ôm ba đứa con về sống bên mẹ tôi một thời gian dài, rồi em tôi lại theo lời gọi tình bước thêm bước nữa với Thân. Nhưng 1975 đã đến Thân bỏ xác ngoài rừng thiêng trong lao tù và Hảo ôm tất cả đau thương quằn quại với 5 đứa con quay lại Ban Mê Thuột sống bên cạnh anh em ôm kỷ niệm buồn một đời...!
    Tôi nhìn Hảo đi nhanh về phía tôi với lòng trắc ẩn giận, thương lẫn lộn, nhưng khi Hảo tới gần, cười trong sự mừng rỡ, đã làm tôi quên đi nỗi xót xa tưởng chừng không nguôi cho số phân người em bạc phước nhưng đã lắm cuộc tình gian truân. Hảo vẫn ôm lấy tôi như ngày anh em thời tuổi dại:
    - Anh về bao giờ mà không phone cho em biết vậy? Mẹ dặn hôm nay anh mày về Ban Mê Thuột, nếu mày có đi đâu cũng nhớ phải đón anh mày, kẻo nó không mang được hai chiếc vali quần áo.
    Tôi nhìn Hảo.
    - Anh đâu có mang theo gì ngoài cái túi đeo vai, và chiếc vali nhỏ có bánh xe kéo dễ ợt ...!
    - Mẹ nói anh mày già rồi...! Tóc nó trắng như bố mày. Tụi mày phải đi đón nó cho mẹ. Vậy là em phải đi đón anh, nếu không mẹ la nghe không nổi đâu.
    - Mẹ lúc nào mà không vậy, mẹ gần trăm tuổi rồi, các em phải chiều mẹ mới được. Kẻo sau này mẹ mất đi sẽ hối hận...! Khi mẹ mất rồi, các em sẽ cầu mong nghe được câu la mắng cũng không có đâu...!
    - Ai ma không biết vậy... Nên từ khi ở Mỹ về tới giờ, Mẹ như nữ hoàng..! Cơm đút nước dâng, chẳng ai dám trái ý..!
    Tôi nhìn người tài xế bước tới cúi đầu chào không nói lời nào, trong khi người đàn ông tiến tới bắt tay tôi và tự giới thiệu:
    - Tôi tên Nương.
    - Tôi Nguyên. Anh của Hảo..
    Trong khi Hảo nhìn tôi, rồi quay qua người đàn ông tên Nương. Hảo không giới thiệu, trái lại bằng một cử chỉ thân mật, Hảo ôm vai người đàn ông, và một câu nói nghe lạ tai đối với tôi :
    - Đố anh Nguyên biết ai đây...? Hai ông đứng gần nhau cứ như anh em ruột, sao mà giống thế...!
    Tôi lắc đầu trong khi liếc nhìn người đàn ông có vẻ trẻ hơn tôi gần chục tuổi.
    Tôi nhìn Hảo chừng chừng, giọng mỉa mai :
    - Anh chịu thua, vì anh chưa bao giờ gặp mặt ông bạn đây. Mà dường như anh bạn đây là đại gia quyền thế của đảng Cộng Sản, nên em quen biết phải không?
    Hảo vẵn giữ nụ cười và làm như không thấy đôi mắt giận của tôi, Hảo nói với người đàn ông tên Nương:
    - Anh Nguyên đã ở Mỹ lâu rồi, chẳng biết ai là họ hàng cả. Anh Nương cũng qua Mỹ mấy lần rồi đó. Anh Nương cố kiếm anh nhưng sao hai ông không gặp nhau?
    Tôi chợt nghĩ tới lời mẹ kể khi mẹ còn ở Mỹ về người chị họ của mẹ ở ngoài Bắc, tôi nghĩ thầm.
    - Chẳng lẽ thằng tư bản đỏ này là con bà quản Trâm? Nếu đúng thì đám anh em thằng này đều là con bác Tựa Cộng Sản thứ gộc.
    Với ý nghĩ này tôi bắt đầu che dấu tư tưởng của tôi qua sự yên lặng thế thủ và nghi ngờ thằng anh họ quái gở, trong khi Hảo cười lớn.
    - Đây anh Nương con bác Tựa ở làng mình, cháu ruột của mẹ. Hảo quay qua anh Nương Sao anh Thấy anh Nguyên giống anh không? Hai ông mà đi với nhau ai cũng nghĩ rằng hai ông là hai anh em ruột cho mà coi.
    Tôi chợt nghe người lạ tên Nương lên tiếng:
    - Nhìn anh giống cái hình của chú Ký Sê ghê đi, nếu giống chú thì tôi và anh đã 90% giống nhau.
    Tôi nhìn anh Nương, chào xã giao:
    - Ổ anh biết cả tên húy ca cha tôi ?
    - Mẹ tôi thường gọi chú là chú Ký Sê, Nghe mẹ tôi kể là chú hồi xưa làm thư ký, và bắt chúng tôi vào Nam kiếm cho được chú.
    Tôi quay nhìn thẳng vào mặt người anh họ tên Nương, và giả giọng vui vẻ hỏi:
    - Tim cha tôi để thủ tiêu ông phải không? Hồi trước Ông là Thư ký Quốc Dân đảng tỉnh Hà Đông và thêo Pháp...! Anh ti`m trễ rồi...! Cha tôi bỏ xác xứ ngoại mấy năm nay rồi..!
    Hảo lắn đầu nhìn tôi ái ngại, trong khi Nương im lặng.
    - Anh Nguyên nói gì kỳ cục vậy ? Anh Nương kiếm để nhận họ hàng đó!
    Tôi khảo lấp câu chuyện không hay vừa nói ra với nguời Cộng Sản anh em, bằng câu hỏi:
    - Anh là con bác Tựa ở làng Thành Lập gần nhà bà ngoại tôi phải không ?
    - Phải tôi là út.
    - Tôi biết bác Tựa khi tôi còn nhỏ lắm...! Khoảng tám, chin tuổi gì đó..
    Anh Nương nhìn tôi :
    - Ông già mất lâu rồi, Hồi c òn thực dân Pháp, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ hai tháng...!
    Hảo nhìn tôi nháy mắt.
    - Còn ba ông nữa lận, ông nào cũng làm lớn trong chế độ này ?
    Trong lòng tôi bỗng sôi lửa hận, tôi đưa đôi mắt lửa nhìn em sau khi nghe câu "làm lớn trong chế độ hiện nay." , trong khi anh Nương thân thiện ôm vai tôi đi tới chỗ đậu xe. Anh tài xế vội vàng kéo cái vali nhỏ của tôi bỏ lên xe, và Hảo đi sau tôi. Tôi nhìn bàn tay của Anh Nương chợt nẩy ra ý nghĩ: "Bàn tay này có thể bóp cổ mình lúc nào mà mình không hay biết, nếu mình tin vào hắn!" Trong khi anh Nương không để ý tới ý nghĩ của tôi, hắn tự nhiên kể nể :
    - Nghe Hảo nói chú về tôi mới vào đấy chứ, nhân thể thăm bà luôn. Trong xóm chú ở trước toàn anh em con cháu của bà không hà. Nhưng tôi ít tới lắm, có khi hai, ba tuần xuống thăm bà một lần rồi đi ngay.
    Hảo quay nhìn tồi khẽ lắc đầu:
    - Cả nhà chỉ có tôi là hợp với anh Nương, mấy ông bà kia khác tôi.
    Sau khi ngồi lên xe tôi hỏi anh Nương.
    - Anh ở làng Thành Lập lâu không.
    - Ở đó từ bé, lớn lên đi bộ đội rồi 75 bộ chính trị đưa về Ban Mê Thuột, nhưng mãi tới năm 2005 mới nhận ra họ hàng...!
    - Tại sao vậy? Bộ anh không kiếm ra mẹ tôi à ? Năm1985 cha mẹ tôi mới qua Mỹ mà!
    Anh Nương quay nhìn tôi buột miệng :
    - Kiếm chứ sao không ! Sau khi mẹ tôi, chị của mẹ chú nói rằng mày có bà cô họ gần trên Ban Mê Thuột , nghe đâu cô mày có nhiều con lắm, và giầu có mày kiếm cô mày cho mẹ, kẻo khi tao chết không gặp mặt.
    Tôi liếc nhìn Hảo như dò ý rồi quay sang nói với anh Nương :
    - Bác còn nhớ tới mẹ tôi.
    - Ây, chị em chơi với nhau từ nhỏ, khi bà còn sống nhắc mẹ của chú hoài. Bà còn nhớ tên cô Mỹ và tên cúng cơm của chú, nên bà dặn cả ba anh em tôi
    - Nếu tụi mày về làm việc tại Ban Mê Thuột thì tìm cô mày, nó có hai đứa lớn, con gái là Mỹ, con trai là thằng Trống. Ba anh em cứ theo tên củ này hỏi chẳng ai biết. Sau này tìm được bà, tôi mới hiểu ra là chú Minh chồng cô Mỹ biết rất rõ nhưng không nhận chúng tôi.
    Hảo thở dài xen vào.
    - Tại vì ba ông anh đều là làm lớn của chế độ, mà lúc đó anh Minh đâu có nghĩ rằng ba ông anh đi kiếm họ hàng, hay là kiếm để bắt bỏ tù, nên anh Minh nhà mình không nhận, và cũng không thích mấy ông anh cán bộ chính trị này, anh Nguyên biết không ! Chứ nếu anh Minh nhận thì ba ông sẽ gặp thày trước khi thày qua Mỹ rồi, tiếc thật!
    Tôi vừa nói vừa nhìn người tài xế, và anh Nương để xem xét phản ứng của họ:
    - Anh Nương biết mà...! Dòng họ nhà mình chia hai Cộng Sản và Quốc Gia đánh lẫn nhau chí chéo, như gà bôi mặt để choảng nhau nên thân. Tôi còn nhớ trong làng họ nhà mình lớn nhất nối liền cả hai làng, Làng Thành Lập và Làng Vân. Chính vì thế mới có kẻ theo đạo Phật, người đạo Công Giáo, đạo Phật thì ở làng Vân, Công Giáo thì ở Thành Lập.
    Đạo đời và Quốc Cộng khác biệt nhau từ cội rễ trong dòng họ nên giết lẫn nhau không kể tình ruột thịt.
    Thú thực, tới thệ hệ chúng ta tôi không muốn cảnh nồi da xáo thịt như vậy nữa...! Cái cảnh thương tâm này chẳng lẽ kéo dài mãi từ thời ông cố, ông sơ nối tới thế hệ anh và tôi...! Anh nghĩ sao anh Nương ?
    - Thôi chú mày cứ vô tư đi. Chuyện đâu còn đó, mấy ông già xưa cổ lỗ.. Tôi và chú, anh em mình khác với những thế hệ trước...!
    Tôi ngạc nhiên vì hai chữ "Vô Tư" anh Nương vừa dùng. Tội hơi gằn giọng.
    - "Vô Tư" là sao, anh Nương ? Có phải là thôi mặc kệ cho dòng họ bôi mặt giết lẫn nhau...! Tôi chẳng sợ quái gì cảnh giết chóc này, nhưng tôi không muốn mà thôi.
    Anh Nương quay mặt nhìn thẳng tôi trả lới:
    - Tôi nói "Vô tư" có nghĩa là thôi bỏ qua đi, chuyện đâu còn đó, anh em ai mà giết lẫn nhau...!
    Tôi chợt nghĩ tới lời cha tôi dặn : "Nếu con muốn làm chính trị, con phải biết giết anh em con trước, vì chúng sẽ không tha con." Tôi liếc nhanh qua mặt anh Nương và nghĩ tới thời còn bé, cái thời mà tôi không biết thế nào là hận thù, thế nào là anh em phản bội lẫn nhau đến nỗi phải từ nhau. Tôi chỉ hiểu lơ mơ rằng hồi đó tôi chạy theo cha ra cổng, và được mẹ tôi hốt hoảng cầm tay kéo lại ôm tôi vào lòng ở giữa sân, trong khi mẹ tôi khóc vùi ướt cả tóc tôi.
    Ngoài đường nhóm theo cha tôi tay cầm gậy, cầm mác, hay bất cứ dụng cụ làm ruộng nào có thể cầm làm vũ khí giết người là họ cầm, và chạy theo cha tôi ra giữa cánh đồng làng để chém lẫn nhau không nương tay. Tôi đã nhìn thấy có kẻ máu chảy ướt mặt, có người ôm tay bị gẫy, có kẻ được cáng mang về bỏ nằm song soài giữa sân nhà của nội. Trong khi nội ngồi yên trên ghế trường kỷ trong nhà không nói lời nào, và từ đó căn nhà gác ba tầng sát bên nhà nội đã không bao giờ mở cửa sổ để ông Chánh nhìn qua truyện trò với ông nội như mọi ngày .
    Tôi tò mò hỏi nội :
    - Nhà ông Chánh hồi này sao đóng mở cửa không mở nữa hả ông nội.
    Những lúc tôi hỏi như vậy, tôi thấy mặt ông buồn và có vẻ giận lắm.
    - Từ nay cháu không được nhận anh em với nhà bên đó nữa nghe con.
    - Tại sao vậy ông ? Ông Chánh, mẹ con bảo Ông Chánh là Chánh Tổng em họ của ông mà..
    - Đồ phản bội... ! Ông chỉ buông ra tiếng thở dài sau khi nói ra ba tiếng này rồi bỏ đi.
    Trong thâm tâm tôi cứ thắc mắc hoài về chuyện ông nội tôi và Ông Chánh sao lại từ nhau...! Nhưng tôi đã không có cơ may để hỏi ông nội.

    Thời gian trôi qua trong sự băn khoăn, giận ghim lòng của ông nội, tôi đã theo mẹ bỏ làng chạy giữa hai lằn đạn của hai bên Thực Dân Pháp và Việt Minh.
    Tôi bỏ làng tan hoang trong cơn mưa bom đạn pháo, và tiếng thét gào ghê rợn của những người dân quê chết cháy trong lửa bom Napan. Xác người lăn lóc dưới cống rãnh, trên bờ ao và lềnh bềnh nổi trên mặt hồ trong khi nước loang màu máu.
    Theo ngày tháng tôi càng xa dần quê nội mang theo nỗi nhớ trùng trùng.
    Khi mẹ, và anh em tôi an bình bên cạnh chùa Pha Đen, chiều chiều nghe tiếng chuông ngân làm vui cuộc sống trong bần hàn cơ cực của mẹ. Mẹ tôi đã nuốt lệ tìm và chờ chồng nuôi con giữa thành phố Hà nội sa hoa đô hội thời thực dân Pháp.
    Những ngày đó tôi thường ngồi thủ thỉ với mẹ, và có một ngày mẹ đã kể cho tôi nghe chuyện ông Chánh, và ông Nội tại sao phải từ nhau, mẹ tôi kể rằng :
    - Ngày đó ông tôi giàu nhất làng, có tới vài chụ mẫu ruộng tư điền do ông cố của tôi để lại, nên có tiền đưa cha tôi đi Hà Nội ăn học, nhưng cha tôi đã bỏ dở học hành theo kháng chiế n vào khu chống thực dân Pháp của thời thanh niên tiền phong, nhưng sau khi nhận biết được mặt trái của đảng Lao Động, Việt Minh, cha tôi bỏ khu về tỉnh chống Thực dân và chống luôn cái đảng mà ông đã đi theo, thế là cha tôi đều bị Cộng Sản và Thực Dân Pháp hăm doạ bắt được sẽ giết.
    Ông nội tôi tuy có đất, có ruộng vườn nhưng ông không thích làm Chánh Tổng và tiếp tay với Thực Dân hà hiếp dân lành. Ông Kiệm bèn hỏi ông nội tôi cho mượn ruộng đất để thế chân làm Chánh Tổng, bởi vậy ông Kiệm mới có cái tên là ông Chánh. Sau khi làm chánh tổng ông Chánh lấy quyền cướp luôn đất ruộng của ông nội, ông nội đòi nhưng Ông Chánh không trả, lại còn báo cho Thực Dân, và Việt Minh biết cha tôi hoạt động chống họ. Từ đó cha tôi không bao giờ ngủ một đêm một nơi, và kiếm đường đi trốn biệt tích không về làng.
    Cộng Sản đã phao nhiều tin thất thiệt về cha tôi như : Cha tôi đã bị Thực Dân bắn chết, hay đã bị Việt Minh bắt ổ chỗ này hay chỗ khác, hoặc có kẻ đã nhìn thấy xác cha tôi trôi song...!
    Mỗi lần mẹ tôi nghe tin chẳng lành như vậy lại ngồi khóc âm thầm trong bếp, và lại tìm cách đi tới chỗ có tin đồn về cha tôi để hỏi thăm sự cố ra sao.
    Một đêm du kích Việt Minh đã gõ cửa nhà tôi, họ mang mẹ tôi đi điều tra về cha tôi tới sáng mới thả về, khi về tới nhà, tôi nhìn thấy tay trái mẹ ôm tay phải bị gẫy, và thất thểu bước vào nhà ngã người trên giường khóc, anh em tôi thấy vậy chạy lại hỏi han, và cùng ôm lấy mẹ khóc ròng.
    Từ đấy sau khi chữa khỏi cánh tay gẫy, mẹ tôi quyết tâm tìm cơ hội bỏ làng, nhưng không cho chị em chúng tôi hay, vì mẹ sợ lộ trong khi du kích cứ lảng vảng theo sát mẹ để mong bắt được cha tôi.

    Quê tôi là vùng xôi đậu, sáng Thực dân pháp kéo về làng thỉnh thoảng bắt vài thanh niên để tra tấn hành hạ đến ngất ngư, rã rượi với mục đich hỏi ai là du kích Việt Minh trong làng, hoặc có thể bắn chết một vài người mà họ đã mang từ làng khác về, đôi khi họ bắn người trong làng để thị oai với dân như một trò chơi hàng ngày không thể không có của họ.
    Mỗi lần thực dân Pháp về làng là sẽ có một vài thiếu nữ trong làng bị họ bắt mang vào chỗ kín, hoặc đem về đồn hiếp dâm tập thể, hay bắt buộc làm vợ của một tên lính lê dương. Đã có nhiều cô gái bị chết vì sự hành hạ nô lệ tình dục dã man, và xác bị vất xuống ao, hồ. Có kẻ đã mang thai và khi sinh ra thì đứa con oan nghiệt lại mang màu da đen, hay màu trắng pha trộn với màu da của mẹ, nên khác biệt với những đám trẻ trong làng, và càng làm cho ngươì mẹ đau khổ hơn, bởi những tia mắt nhìn soi mói của dân làng.
    Những người đàn bà xấu số này đâu có được yên..! Bọn du kích tìm đến tra hỏi vì tội có con với thực dân Pháp, và người đàn bà này cũng lại bị du kích Việt Minh đe doạ khủng bố hang ngày, và chỉ còn cách duy nhất là mang thân ra trao đổi làm vui cho bọn quỷ sứ để được yên phận nuôi đứa con oan nghiệt, để rồi một đời nhịn nhục , một mình tủi thầm trong buồng vắng, và không ra khỏi nhà sau công việc bắt buộc ngoài đồng kiếm ăn cho sự sống còn...!
    Đêm xuống du kích Việt Minh về làng, bắt dân đi họp học tập kiểm thảo chống thực dân pháp, và thu thuế nuôi chiến binh. Nếu có ai vì mệt mỏi công việc đồng áng không thể đi họp, hoặc nghèo không thể đóng thuế sẽ bị du kích Việt Minh cho là phản động, và ghi vào sổ đen chờ ngày họ tới nhà bắt chủ gia đình vào giữa đêm đem di mất tích. Vài hôm sau dân trong làng sẽ nghe được tin có một xác chết trên cánh đông không có đầu, hoặc tin họ nhìn thấy cái đầu trôi trên sông Cái (sông Hồng).
    - Sao chú ngồi yên vậy? Chú Nguyên, tới nhà rồi đó, bà đang mò lên đưới dốc kia kìa.
    Tôi quay lại nhì anh Nương và phóng mắt nhìn xuống dốc, tôi thấy mẹ đang vội vã chống gậy bước lên dốc một cách thoải mái khoẻ mạnh, tôi nói với Hảo.
    - Ồ, Mẹ vê VN ở có mấy tháng mà khoẻ ra, bước mau gớm...! Khi mẹ ở Mỹ ôi thôi, kéo mẹ ra khỏi nhà đi mấy bước cũng không được.[/font]
    - Mẹ còn lẩm cẩm không Hảo ?
    - Đâu có, mẹ minh mẫn quá trời, nhớ từng tên hơn ba chục đứa cháu.
    Anh Nương quay nhìn tôi nói.
    - Bà về đây khoẻ lại thật đấy chú Nguyên. Chú để bà ở lại VN đi, bà già rồi chẳng ai hỏi han gì đâu. Khi chú Thanh đưa bà về tôi xuống thăm, bà nhận tôi là cháu ngay sau khi tôi kể tên mẹ của tôi. Mấy tuần đầu mới về bà có vẻ quên nhiều người họ hàng ngoài Bắc, bây giờ thì nhớ đủ thứ, mỗi lần tôi xuống là bà kể chuyện mẹ tôi, và mấy người bạn cũa của bà. Bạn của bà ngoài Bắc đã chết hễt rồi, chỉ còn bà là sống dai đáo để...!

    Mẹ tôi đứng lại trước đầu xe, trong khi xe cũng vừa đừng lại. Tôi mở cửa bước xuống trong khi các chị em, cháu chắt tôi chạy ra vây quanh. Tôi ôm lấy mẹ, mẹ tôi cười mắng với giọng yêu thương:
    - Mày thì lúc nào cũng ôm lấy mẹ...! Mẹ mà mất rôi con ôm ai...? Con gìa rồi... Hơn sáu chục rồi mà như con nít ... bỏ mẹ ra đi... hàng xóm nhìn thấy kỳ lắm...!
    - Mẹ nhìn đồng hồ thấy 6:00 giờ mà anh chưa về. Mẹ chống gậy định lên đầu dốc đứng chờ ... Quế, em gái tôi nói.
    - Sao mẹ không ở nhà, trước sau gì con cũng về nhà mà...! Tôi nói với mẹ.
    - Quỷ..! Sao mà xe hôm nay đi lâu thế...! Mọi khi mẹ thấy 5:00 giờ là xe về tới bến .. Mẹ lên đầu dốc mấy lần, chẳng thấy con đâu cả. [/font]
    - Anh Nương chở con về nhà em Hảo, để Hảo dặn con cháu sau đó Hảo theo con về đây nên trễ đó mà...!
    Mẹ tôi nhìn quanh tìm Hảo.
    - Ôi giờì...! Con Hảo ai mà tin được nó...! Nó đi tối ngày...! Thằng ôn dịch Cộng Sản nào cũng anh anh, em em được.
    Hảo nhìn mẹ tôi bất mãn ra mặt.
    - Con đi với anh Nương chứ đi với ai mà mẹ nói kỳ vậy.
    - Thì đi với thằng Nương, mà thằng nương không phải là Cộng Sản à..!
    Anh nương cười xòa.
    - Con Công Sản bao giờ...? Sao cô biết...!
    Mẹ tôi liếc nhanh anh Nương.[/font]
    - Mày không là Cộng Sản, thì bố mày là Cộng Sản...!
    Tôi ôm vai mẹ, nói đùa cho anh Nương khỏi mích lòng.
    - Bà ơi bà...! Con cũng là con cháu Cộng Sản gộc đây...! Bà có ghét cũng huề vốn...!
    Anh Nương vào nhà, anh em nói chuyện với nhau những câu truyện về làng Thành Lập, làng Vân. Tôi hỏi thăm anh những người bạn cũ của tôi [FONT='Times New Roman','serif'] tôi và hiểu rằng [/font]đa số những người bạn của tôi đã qua đời. Bỗng dưng tôi hỏi anh Nương:
    - Anh biết tên người nào là Mến, em của chị Mộ con bác phó Tập không ?
    Anh Nương nhìn tôi thốt lời :
    - Trời đất, phone lúc nãy là phone của con bà Mến gọi cho tôi. Bà ta có năm đứa con, hai trai ba gái. Hai thằng con của bà Mến làm dưới quyền tôi ở gần sống Bé mà, khi nào rảnh tôi chở chú tới gặp thằng Khôi. Con lớn của bà Mến.
    - Bà Mến còn sống không ?
    - Mất lâu rồi! Chú quen bà Mến à? Mấy chục năm mà còn nhớ dai nhỉ !
    Tôi gật đầu không trả lời anh Nương, trong lòng tôi tự nhiên vương lên hình ảnh cô bé hay khóc luôn chạy theo tôi bắt đền đủ thứ, và tôi cũng thường dắt Mến tới bên gốc gạo đuổi bắt bông gạo đỏ lìa cành rơi xoay xoay trên không, Đôi khi cùng Mến và các bạn chơi trò cưới hỏi trẻ con, những lúc chơi như vậy tôi luôn làm chàng rể và Mếm luôn làm cô dâu.
    Thời gian đã qua thật nhanh, tôi bỏ làng năm mười tuổi xa Mến, bỏ làng đã hơn 50 năm, tuy nhiên mỗi lần nói tới làng Thành Lập là tôi chợt nghĩ tới cô bé khóc nhè dai dẳng ngày cũ, nước mũi chảy thò lò lấy tay quẹt ngang, mớ tóc dày rối bù luôn ôm vạt áo dạp chân xuống đất khi tức giận, và lẽo đẽo theo sau tôi bất kỳ chỗ nào. Hình ảnh làng Thành Lập luôn ẩn hiện trong tiềm thức với nóc nhà thờ cao vút, và những con đường dọc, ngang mà tôi đã một thời đi qua.
    Ban Mê cũng là một đớn đau dài khôn nguôi khi thân xác tôi lớn lên và trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Ban Mê đã thay đổi không còn như những cô gái thượng hiền hoà ngày cũ, mà là một cuộc sống lam lũ nghèo khổ dưới sự che đậy bề ngoài bằng những dinh thự mới xây dựng của các tư bản đỏ Cộng Hưởng ăn cướp. Dân khổ nhục xả than chỉ mong sao kiếm nổi một bữa ăn tối cho đêm bớt lạnh.
    Xã hội cộng Sản không có tình người, tôi chỉ nghe được hai tiếng"Vô tư" buốt lạnh từ miệng của những người Cộng Sản, và tiếng thở dài lén lút của dân.
    Tất cả đã qua...! Thơ ấu không trở lại mà chỉ con tiếc nuối mơ hồ hồng hoang...! Tuổi xanh mộng mơ bội vã mất biến trong cơn lốc thời cuộc...!

    Bây giờ nửa đời bến lạ ôm ký ức tuổi thơ về lối cũ...!
    Những gì nắm chặt trong tay rồi cũng sẽ mất, thời gian sẽ làm mọi thứ đổi thay...!
    Những người Việt hải ngoại cũng sẽ trở về khi không còn quân cưỡng chiếm, độc tài, và tôi sẽ mang tất cả sóng lòng vỗ mạnh vào nước phù sa Sông Hồng trào dâng vào ruộng đất quê tôi, để đất mềm bung lên xoá đi nỗi thương lòng dòng họ ngày cũ, những hạt cỏ dại tình người sẽ mọc, hoa sẽ đơm bông và tiếng chuông chiều lại ngân vang vọng như mơ trong sương chiều quê nội !
    Quê Hương ơi... Có phải là nỗi đau dài?

    San Jose Mar. 23, 2007
    Chinh Nguyên
     
  4. administrator

    administrator Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    Thg 3 14, 2011
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Giới tính:
    Nam
    DIỄM DIỄM

    [​IMG]

    San Jose tháng bẩy vào giữa hạ, nắng và nắng chan hoà , xa lộ 101 như con rắn khổng lồ hun hút với những xe hơi tấp nập chạy đua với thời gian hai chiều ngược suôi trong nắng bốc hơi lửa.
    Những dẫy núi bao quanh San Jose và hai bên xa lộ cỏ đã úa lá, Cây có vẻ khô cằn không còn sức sống, và chỉ chờ một cơ hội va chạm mạnh bất ngờ nào đó của cỏ gai là sẽ tạo lên thành ngọn lửa trong nắng cháy bùng lên dũng mãnh nghiệt ngã.
    Bầu trời không mây trắng, trong xanh lặng lẽ và thỉnh thoảng có những cách chim vụt ngang qua.
    Tôi lái xe chạy ra khỏi xa lộ 101 về nhà phía hướng tây trên đường Tuly trong buổi chiều 100 độ F. Ngồi trong xe có máy lạnh nhìn qua hai hàng cây bên đường Tuly yên lặng trong nắng chạnh lòng chợt nhớ tới Ban Mê Thuột lạ lùng. Ban Mê của tuổi dại, Ban Mê của thời chớm yêu 16, và Ban Mê của lòng xuân ôm mộng rồi bất chợt tan hoang.
    San Jose bây giờ là mùa hạ, nhưng tôi nhớ Ban Mê bây giờ đã vào thu, phuợng hai bên đường Thống Nhất cành đã không còn đong đưa theo gió nhẹ để những cánh hoa đỏ rung rinh, cánh bay hoa rơi rơi tựa giọt máu trong không gian đã biến mất, cho lá cành bắt đầu một mùa chia ly trong tiết thu lành lạnh buổi sáng dưới bầu trời xanh có mây trắng lặng trôi. Tôi thủa ấy đã đành đoạn đưa tay cầm bì thư của Diễm Diễm trao tặng không nói và quay đi.
    Tôi biết Diễm Diễm chỉ chờ tôi mở lời sau khi tôi cầm thư của nàng, và nàng sẽ nở cụ cười răng khểnh chúm chím e thẹn ửng hồng đôi má, nhưng tôi không nói, quay đi trưóc sự ngạc nhiên của nàng, để rồi nàng đã đạp chân xuống đất sau khi tôi đã đi được mấy bước, và rẽ lối bước thật mau như chạy trốn. Tôi mất Diễm Diễm từ đó...! Tuổi mười sáu mộng tràn chăn gối cũng chợt bay theo thời gian tan tành với ước vọng thanh xuân ...!
    Ngày đó, trong khi một mình thong thả trên lối phượng mơ của con đường nhỏ Thăng long hai bên là đồn điền cà phê của ông Huấn và cành phượng đan nhau trên không từ những gốc phượng trồng dọc theo lối đi, tôi đã ngồi đựa lưng vào một gốc phượng mở thư của Diễm Diễm ra đọc thơ của nàng trước khi về nhà dọn dẹp hành lý theo cha vào nhà tập dòng Lasan.

    Thôi chẳng yêu thương và hứa hẹn,
    Anh về đi đừng nhắc lại tên tôi
    Chuyện thế gian tôi đã chán lắm rồi,
    Chữ chung thủy bảo tôi làm gì nữa
    Tôi không dám oán than đời ngang trái
    Nhưng vẫn buồn không biết tại vì sao
    Có lẽ vì bao chuyện đớn đau
    Của bạn hữu đã làm tôi run sợ
    Đừnh nhắc lại tên tôi thêm lần nữa
    Đừng yêu tôi, và đừng trách tôi gàn
    Cũng đừng cho rằng tôi quá khô khan
    Bởi tôi đã thiết tha nên sợ hãi.

    Diễm Diễm

    Tôi đã ngạc nhiên khi đọc tới hai chữ Diễm Diễm, bởi vì tên nàng không phải là Diễm Diễm. Tôi dùng chữ D đầu tên của nàng để gọi nàng là Diễm Diễm vào những chiều hai đứa dong chơi trong rừng trâm, tôi là người luôn trèo lên hái những trái trâm chín màu tím mang từ cành cao xuống cho nàng, mà cũng chỉ có riêng tôi và nàng biết cái tên tôi gọi nàng và nàng đã chấp nhận cái tên Diễm Diễm như một tặng vật tôi gói ghém trao nàng.
    Những lúc đó nàng chỉ mỉm cười nụ, rồi ngúng nguẩy lắc đầu làm làn tóc thề bung ra tung trong gió chiều:
    - Cái tên Nguyên gọi kỳ kỳ làm sao ấy. Diễm không chịu đâu nghe.
    - Nếu Diễm Diễm không chịu thì Nguyên sẽ tìm tên khác, nhưng Diễm Diễm hay hơn.
    - Tại sao Nguyên nói là hay? Đưa đôi mắt bồ câu Diễm Diễm nhìn tôi chớp chớp, và hỏi tôi trong nụ cười răng khểnh nở trên môi nàng.
    Tôi nhìn nàng thản nhiên đưa những trái trâm tím chín mọng vào miệng cắn giữa đôi hàm răng trắng và đôi môi mọng đỏ
    - Bởi vì nó lột tả được hết vẻ đẹp của Diễm Diễm.
    - Nguyên nịnh đầm hay thật! Ai dạy vậy nà?
    Tôi dương mắt làm hề cho nàng cười, và bước chung quanh nhìn nàng, trong khi nàng đã nhắm mắt đứng im như pho tượng mặc tôi ngắm nàng để tả về sắc đẹp trên thân thể nàng.
    - Chẳng ai dạy cả, nhưng đó là sự thật mà, này nhé Diễm Diễm có mái tóc mây óng ả ôm ngang lưng, thân vóc như cành mai, nụ cười có chiếc răng khểnh, má lúm đồng tiền hồng hồng như trái đào tiên trên khuôn mặt trái soan và làn da trắng trẻo dễ làm nhiều người chết lắm đó nghe. Hai thằng trời đánh Trịnh Viết Bốn, và Hứa Ngọc Ẩn khen hoài đó nghe.
    - Nguyên còn gì nói nữa không? Nếu không người ta mở mắt đó !
    - Ồ còn nhiều thứ phải nói lắm...! Này nhé dáng đi nhẹ nhàng như Tây Thi, mỗi bước là có hoa phượng rơi, khi cười lớn thì như tiếng cười Bao Tự, và làm thơ thì tựa Tiết Đào
    Ôi thôi nhiều quá kể không hết đâu..! Nói chung ra Diễm Diễm cũng tựa như 15 tuyệt đại mỹ nhân của Trung Hoa thời cổ..
    Diễm Diễm mở mắt lớn nhẩy tới túm lấy tôi, nàng nói.
    - Thôi cho Diễm xin đi, Nguyên khéo nói quá đi thôi. Ở nhà mẹ nói Diễm là con gái lười và xấu nhất nhà đó.
    Tôi vừa cười, nói vừa chạy để nàng đuổi bắt tôi trong rừng trâm.
    - Bà nói yêu đấy thôi. Tác phẩm của bà thì bà đâu có biết được xấu đẹp ra sao...! Chỉ có người ngoài ngắm mới thấy được thôi. Dao sắc đâu có gọt được chuôi...!
    - Thôi Diễm chịu thua Nguyên. Mình về đi ... Chiều nay trốn học đi hái trâm.. Nguyên chớ nói với ai chuyện này đó nghe.
    - Ừ...! Chỉ có suối Mourier (Bu-ri) biết hai đứa xuống đây thôi.
    Trang kỷ niệm của tôi và Diễm Diễm không chỉ có thế, nó còn kéo theo những chiều tan học sau giờ việt văn của Thày Nguyễn Duy Trại, nhà văn Thái Anh Duy, chúng tôi đạp xe song song nhau trước sự nhìn ngó, xầm xì của lũ bạn cùng lớp để bàn về luật thơ song thất lục bát hay niêm của đường thi và thỉnh thoảng ghé nhà thờ chính tòa đứng bên hang đá cầu nguyện bâng quơ.
    Sau những phút yên lặng cầu nguyện mỗi lần của hai đứa, tôi thường hỏi Diễm Diễm. Những câu hỏi và trả lời của chúng tôi gần như đã thuộc lòng hầu như giống nhau:
    - Diễm Diễm à..! Diễm cầu nguyện gì vậy?
    Diễm liếc nhanh nhìn tôi.
    - Bí mật, không nói được. Thế Nguyên cầu nguyện gì ?
    - Nguyên cầu nguyện Đức Mẹ cho Diễm Diễm luôn vui, đẹp, học giỏi, an bình và hạnh phúc trong tương lai.
    - Có thế thôi sao?
    - Ừ, thật đấy..!
    Giọng Diễm có vẻ buồn, nàng hỏi.
    - Không có gì khác hơn sao?
    - Không. Tụi mình là bạn thân mà.. Thật đó. Tôi thật thà trả lời.
    Diễm Diễm nhìn tôi trong yên lặng vài giây như muốn nói với tôi một điều gì, nhưng nàng đã dấu kín, và tôi biết thế nào nàng cũng nhanh chân bước ra chỗ dựng xe và cũng sẽ nói với tôi một câu - You are bad boy... trước khi bỏ tôi lại trong sự suy tư về hành động của nàng.
    Những lúc nàng giận dỗi bỏ đi, tôi chỉ còn đành đưa mắt theo nàng bước mau tới chỗ dựng xe, lắc dầu nhìn nàng đạp xe vội vàng trên lối xi măng trước săn nhà thờ để băng qua đường Phan Chu Trinh xuống đường Quang Trung và mất hút sau rạp hát Tương Hiệp.
    Hơn hai mươi năm tôi bỏ dòng Lasan và canh cách bên lòng bài thơ Diễm Diễm viết tặng tôi với câu cuối cùng đã làm tôi tìm về lối cũ đường xưa. Nhưng ghế đá bên cạnh hang đá đã quỵ xuống theo thời gian, rừng trâm bên suối Mourier (Bu-ri) đã tan hoang, lối cũ Thăng Long xưa cũng hoang phế phượng mơ với cây cành đổ vì trận chiến Mậu Thân, và bóng dáng Diễm Diễm với tà áo xanh học trò cũng xa bay biền biệt ..!
    Ban Mê thật buồn với tiếng động giày lính thành phố của tôi cô đơn trên hè vắng, và lạc lõng chỗ đông người. Tôi đi tìm lại dấu yêu xưa trong góc tối của nhà thờ ngày Chúa nhật, trong sân chùa Khải Đoan của ngày rằm mỗi tháng, và nơi nào tôi cũng quay quắt kiếm tìm với niềm hy vọng gặp lại Diễm Diễm, dù chỉ gặp lại để nhìn lén nàng hoặc nếu có thể không may trực điện tôi cũng sẽ cố nói lên lời chúc mừng nàng hạnh phúc trăm năm trong hôn nhân thần thánh.
    Nhưng không...! Nàng vẫn biền biệt mây trời, cá lặn sâu đáy nước, và tôi vẫn thỉnh thoảng buồn bâng quơ, giật thót lòng khi chợt nhìn một tà áo xanh nào đó có dáng người giống nàng, nhưng khi tới gần người lạ nỗi thất vọng bỗng tự đâu tràn về ngập hồn, tôi lại lầm lũi quay đi và giải sầu bằng những lon bia lạnh ở những quán cóc trên góc phố.
    Diễm Diễm đã thật sự xa tôi theo cường độ chiến tranh ngày một thêm tàn khốc trên quê hương, những người bạn ngày một thưa dần bởi những trận chiến của khe Sanh, Darto, Quảng Trị, An Lộc, Asao, Hạ Lào, Mậu Thân 1968...Tuy nhiên những dòng thơ nàng viết ngày cũ còn đó đong đưa trong hồn tôi như một trách móc giận hờn, nên mỗi lần bước qua sân Nhà Thờ Chính Toà Ban Mê Thuột là tôi lại thoáng hình Duyên bóng nàng dắt xe đạp vội vã với ánh mắt buồn len lén nhìn lại và bỏ tôi cô đơn một mình trên ghế đá với lòng xôn xao nỗi nhớ vụt về.
    Mười mấy năm làm thân lính, tôi dường như đã quên nàng vì chiến tranh lửa đạn, tôi đã gói bóng dáng nàng thật kỹ trong đáy tim để nghe tiếng gọi của sông núi và mang vào lòng lửa hận thù với người cùng giống nhưng khác chiến tuyến Quốc, Cộng, trong khi mỗi trận địa dường như là mỗi hố sâu chôn thây những người lính hai bên.
    Hình ảnh của những xác chết, và bị thương không toàn thây được chở về trên những chuyến trực thăng tải thương vội vã đáp xuống bãi đậu bên cạnh cổng phi trường L-19, làm tôi buốt lòng thương những người bạn đã nằm xuống, và cầu nguyện cho những thằng bạn đang đi vào lửa đạn chiến tranh được bình an trở lại với thân thương.
    Quê hương, hai chữ thân yêu mê muội là thế! Tuổi trẻ luôn mãi hiến thân với ước vọng an bình cho tương lai đất nước từ ngày đầu lập quốc, nhưng mãi mãi vẫn chưa yên và thế hệ trước nối tiếp thế hệ sau để bảo vệ vẫn là lời chối trăn tiền nhân lưu lại : Tự do, tự cường dân tộc Việt.
    Những đêm hoang trăng lạnh đơn côi ngồi trên lô cốt khi đơn vị cấm trại nhìn vào bóng tối rừng sâu, hoặc nằm thu mình trong xó hầm núp nhìn ánh hoả châu lọt qua khung cửa nhỏ chạy loang trên vách hầm trong sương khuya mờ ảo của rừng núi Ban Mê tôi chợt se lòng nghĩ thân phận và tình nước non mà lòng trùng xuống như khúc nhạc buồn. Lòng tôi rã rời rồi nhìn vào đời lính chiến với mộng ước cho quê hương chóng được thanh bình, và cũng chỉ có thế tôi mới quên được Diễm Diễm với nỗi nhớ xưa, và thầm mong nàng không bị một mất mát nào trong đời giữa cuộc sống vợ chồng trong chinh chiến dài và đầy hạnh phúc.
    Chiến tranh đôi khi đã lan tràn vào thành phố, đời lính chợt quên hết mọi chuyện tình buồn để đối mặt với vận mệnh đong đưa trên sợi tơ của cuộc sống, thế mà tình Ban Mê tôi vẫn ôm vào lòng, vẫn hoài vọng những bước chân ai trên hè phố, ghì chặt thân súng trong tay mà đôi khi tôi tưởng đó là người tình..
    Tháng ba năm 1975, mưa trọng pháo và hoả tiễn của Cộng Sản như mưa rừng Cao Nguyên đã cày nát đơn vị Kiểm Báo Pyramid trong phi trường L-19 Ban Mê Thuột, T-54 theo biển người đã tràn vào cán nát những thây đã chết của bạn tôi dưới đôi xích sắt, trong khi tôi đã may mắn ra khỏi vị trí chiến đấu trước tháng 2 để đi học và thoát khỏi tử thần hầu sống còn.
    Từ Sài Gòn tôi quay quắt đôn đáo chạy vòng vòng tìm kiến tin tức Ban Mê, nhưng tất cả chỉ là thất vọng, chán chường với những tin địch đang tràn vào những thành phố mà quân đội đã bỏ lại theo lệnh rút quân, và Sài Gòn cũng mất sau khi chiếc T-54 ủi sập cổng Dinh Độc Lập, nơi biểu thị cho nền Cộng Hoà, và cũng là căn cứ cuối cùng của miền Nam Tự Do vỡ tan sau lời kêu gọi đầu hàng của người lãnh đạo đã làm đổ hai chế độ Cộng Hòa của Miền Nam, tướng Dương Văn Minh...!
    Tôi thất thểu bước lên tàu Trường Xuân trong lúc Sài Gòn nghiệt ngã nấc nghẹn, trong khi đường Sài Gòn có những chỗ loang máu, và xác chết nằm bên rãnh mương. Tôi rơi lệ giã từ Sài Gòn, biệt ly thành phố nhỏ bé Ban Mê có nhiều kỷ niệm yêu thương, đã nuôi nấng tôi lớn lên với niềm chắt chiu của mẹ, để từ đây sẽ lạc loài trên xứ người như một cây tầm gởi.
    Lòng tôi nhói đau nhìn dân bản xứ và đêm về quằn quại lệ nến với bình rượu cạn để tìm quên. Tôi tìm quên quê hương đau khổ trong cuộc sống nô lệ mới mà chủ nhân lại là người cùng giống trong đó có Diễm Diễm và những người thân yêu...!
    Những năm trên bến lạ mang nặng ưu tư khắc khoải nhớ quê và gia đình bên kia đại đương, nhưng không biết sao lòng tôi lại thoáng một hy vọng sẽ gặp Diễm Diễm trên mảnh đất lạ xa xăm cội nguồn ngàn dặm.
    Một hôm, tôi nhận phone reo giữa đêm trong khi tôi đang ngủ gà ngủ gật trên ghế salon và đầu giây bên kia gọi qua từ San Jose :
    - Hello, anh Nguyên phải không ?
    - P... Phải.. Tôi ngạc nhiên trả lời.
    Giọng nói đàn bà trẻ reo vui bên kia đầu giây.
    - Gặp anh rồi...! Em là Kim đây..! Anh ở Tucson Arizona phải không ?
    Tôi chau mày suy nghĩ trong khi miệng buột câu hỏi .
    - Phải, tôi ở Tucson. Kim nào vậy nà..?
    Có giọng cười lớn trong ống nghe kèm theo tiếng giải thích của người đàn bà trẻ.
    - Kim con ông Toàn đó...! Ở gần nhà thầy mẹ anh trên Ban Mê Thuột. Anh quên mất bé Kim rồi sao?
    Tôi chợt mừng, hỏi lại.
    - Có phải cô là bé Kim làm cho DAO ở Ban Mê Thuột phải không ?
    - Phải .. Phải.. anh nhớ rồi đấy...! Anh sang năm nào vậy ?
    - 75. Ai cho em biết số phone của anh?
    - Thày anh trên Ban Mê Thuột chứ ai. Thày anh qua nhà thày mẹ của em chơi, sau đó thày anh nghe được em ở Mỹ nên thày anh cho số điện thoại của anh để em liên lạc với anh.
    - Ồ, thì ra là thế. Gia đình em ra sao?
    Có tiếng thở dài bên đầu phone bên kia.
    - Em ly dị rồi...!
    - Sao vậy ?
    Kim phân bua :
    - Thì anh biết rồi... Em lấy chồng Mỹ khi làm ở DAO nên qua Mỹ trước năm 75, nhưng khi qua đây nó bỏ bê em, và nó đòi ly dị, em chán quá, nên ký đại ly di cho xong...! Anh thế nào ?
    Tôi chợt se lòng nghĩ tới người vợ không yêu mà mẹ tôi
    cưới đem về, và tôi chấp nhận như một sự trả hiếu cho mẹ yên lòng, nhưng tôi dấu Kim không nói thật cho nàng nghe.
    - Thì cũng vậy thôi..! Lang bang chẳng làm đươc chuyện gì cả...!
    - Chị có qua với anh không ?
    Chợt xót xa dội vào lòng, tôi cố đè nén trả lời Kim.
    - Không, bà ấy đâu có yêu anh..! Bà bỏ anh từ lâu rồi..! Hiện bà ấy đang ở với ông chồng cán bộ Công An lớn của Việt Cộng và đã có con với hắn rồi.
    - Vậy anh có cháu nào không ?
    - Không...!
    - Thế thì may cho anh và cũng xong thôi..! Khỏi nợ nần nhau..! Mà cũng tại ngày ấy anh chê em xấu, nếu không thì anh đâu có như bây giờ...!
    - Thôi quên đi nghe Kim..! Anh đi ngủ đây, mai anh còn đi làm...!
    Đầu phone bên kia có vẻ vội vàng.
    - Anh Nguyên, em xin lỗi nghe, em không nhắc chuyện xưa nữa. Nhưng em có gặp một người mà em biết rằng anh sẽ ngỡ ngàng khi nghe tin này.
    Tôi bực mình, nên nổi quạu hỏi Kim.
    - Tin gì..? Ai, người nào mà cô nói tầm bậy tầm bạ, tôi đi ngủ đây, tôi cúp máy đó nghe.
    - Không..! Anh đừng cúp...! Em nói thật đó..! Chị này thân với anh lắm..! Chị nói vậy mà...! Mà chắc anh không quên chị ấy đâu..! Chị còn độc thân đó nghe..!
    - Ai? thì em nói ra đi.. anh mệt quá rồi...!
    - Chị Duyên, em của chị Nga và anh Hùng đó...!
    Tôi sững sờ vài giây và ngồi bật dậy.
    - Em nói đúng không đó? Đúng anh quen Duyên rất thân, nhưng mấy chục năm rồi anh không gặp mặt, mà nếu có gặp anh cũng chẳng nhớ nữa, vì lớn và già rồi nên thay đổi..! Nghe đâu Duyên đã có chồng con rồi..!
    Có tiếng cười nhỏ bên kia đầu giây.
    - Em biết ngay mà...! Nhắc tới chị Duyên là anh sáng mắt ra liền. Thôi anh đi ngủ đi. Mai em gọi cho anh.
    - Em nhớ hỏi cho anh địa chỉ của Duyên nghe...!
    - Được rồi em sẽ tìm cho anh, bây giờ em không có địa chỉ của chị Duyên.
    Tôi nghe được tiếng thở dài ở đầu giây sau khi Kim ngưng nói chuyện, và tôi gác máy nhưng đã không ngủ được với hình ảnh ngày xưa hiện về tràn đầy trí tưởng.
    Thoáng mấy năm tôi đã không gặp Kim, và số điện thoại của nàng cũng đã đổi, tôi hết hy vọng tìm Diễm Diễm, mặc dù tôi biết nàng đã qua Mỹ năm 1985, và cũng từ đó chỗ nào có cuộc hội họp đông người là tôi tìm đến với hy vọng rất mong manh, nhưng có tới còn hơn không để hồn tôi khỏi chất vấn lòng mình.
    Tôi gặp Châu người bạn cùng lớp thời trung học Ban Mê Thuột bất ngờ trong buổi tiệc nhóm họp Không Quân Kiểm Báo, hai đứa tôi ôm lấy nhau, ngồi cùng bàn và kể đủ mọi chuyện trước sau cho nhau nghe, sau đó hỏi thăm nhau về những người bạn xưa, bỗng đưng Châu nhìn tôi hỏi sau khi hắn nốc một ngụm rượu mạnh đầy:
    - Nguyên, mày đã có vợ chưa?
    Tôi cười trả lời Châu.
    - Thì mày biết tao rồi, có vợ không con và bị vợ bỏ rơi nên tao lang thang...!
    Châu nhìn tôi vẻ mặt dò hỏi.
    - Không. Tao hỏi mày trong hiện tại đời sống mày bây giờ.
    Tôi không biết Châu sẽ nói gì sau câu trả lời của tôi, nhưng tôi biết rằng sẽ có chuyện lạ, tuy nhiên tôi nhìn Châu trả lời nước đôi.
    - Chắc Hà liên lạc với mày phải không? Hay mày biết tin những thằng bạn của chúng mình lìa bỏ thế giới này! Đời phù du mà! Hối tiếc cũng thế thôi...!
    - Không...! Tao kể như không liên lạc với bà vợ phản phúc của mày, nhưng tao muốn biết đời sống của mày bây giờ mà thôi.
    Tôi ôm vai Châu lắc mạnh.
    - Mày có chuyện gì lạ vậy, hay mày muốn hỏi thăm thày mẹ của tao? Thày Mẹ tao đã qua Mỹ sum họp rồi, năm 1985, ông bà đã già và tao phải bên cạnh.
    - Tao mừng cho mày kéo đuợc ông bà qua, nhưng tao hỏi chuyện vợ con mày bây giờ.
    - Thì Hà đã bỏ tao mấy chục năm rồi..! Nàng đã có con với người ta, còn tao thì vẫn long đong, nhưng sự thực tao đã có người tình, và đã hứa đem nàng về làm vợ cho thày mẹ tao vui. Nàng rất hiền và yêu tao, tao biết nàng sẽ thiệt thòi, nhưng nàng chấp nhận chỉ vì yêu tao mà thôi.
    Châu thở phào một hơi dài thoải mái, hắn vỗ vai tôi.
    - Ở Mỹ này mà mày được yêu là hiếm đó..! Thế là mày yên thân rồi..! Tao thương cho mày, nên hỏi vậy thôi...!
    - Mày nói chơi ? Ở đâu mà không có tình yêu. Nếu không đời sẽ hết vui đó mày...!
    - Tao hiểu mày nói gì, nhưng xứ này đô la đi trước rồi tình theo sau, trước khi lấy nhau và ký tờ hôn thú họ còn nghĩ ra tờ hợp đồng chia gia tài mày biết mà...!
    - Thì đúng như mày nói đối với đa số người bản xứ, nhưng người Việt tao chưa thấy chuyện này sảy ra, tuy nhiên cũng sẽ có vì sự học cái dở nhanh hơn học cái hay của bẩm tính con người.
    Châu nhìn tôi cười, trong khi tôi nhìn vào mắt Châu và biết rằng hắn có cái gì đó muốn nói với tôi, nhưng khi tôi nói với hắn rằng tôi đã yên, thì giọng nói hắn có vẻ thay đổi và sóng mắt hắn dịu lại như không còn thắc mắc gi. Tôi hỏi Châu.
    - Mày có gì dấu tao ?
    - Mày tinh thật. Châu gật đầu trả lờì.
    - Chuyện gì vậy? Quan trọng không ?
    Châu lắc đầu trong khi trả lời .
    - Cũng chẳng có gì quan trọng cả. Mày đã có người tình thì kể như xong, quên đi để có hạnh phúc với cái gì mày có là tốt nhất.
    - Mày nói gì lạ vậy, tao không hiểu ý của mày?
    - Tao nói tới Duyên của mày.
    - Duyên nào?
    - Duyên em chị Nga và thằng Hùng đó. Tụi mày thân với nhau từ hồi đệ ngũ mà...! Tao biết quá nhưng không nói đó thôi. Nó ở ngay đây mày biết không?
    Tôi chới với nhìn Châu hỏi.
    - Duyên ở Santa Ana ?
    - Phải, Vài lần tao gặp Duyên bất ngờ trên phố Bolsa, chúng tao nói chuyện trời đất và kỷ niệm trường xưa. Nhưng cuối cùng nàng cũng nhắc tới mày có vẻ tha thiết lắm, lo cho mày lắm và lần đầu nàng hỏi tao anh Nguyên còn hay mất với hàng lệ rưng rưng. Tao biết nàng yêu mày ghê lắm, nhưng dường như bây giơ nàng đã có bồ Mỹ.
    - Sao mày biết? Bộ Duyên chưa có chồng khi ở Việt Nam sao ?
    - Gần 60 mươi rồi mà nàng còn độc thân, qua Mỹ mới có bồ, lại là bồ Mỹ...! Tao tới thăm mấy lần. Nó yêu mày, nhưng tao biết là nó sẽ không bỏ thằng Mỹ để theo mày?
    - Tại sao? Nhưng cũng muộn rồi...! Tao cũng tìm Duyên mấy năm trên đất Mỹ, khi tao nghe tin nằng đã qua 1985.
    - Đúng, Duyên vượt biển qua với mấy anh em...! Sao mày biết ?
    - Thì bé Kim ở gần nhà tao cho tao hay, nhưng sau đó tao không liên lạc được với bé Kim này nữa...! Nhưng tại sao Duyên chấp nhận có bồ Mỹ ?
    Châu lắc đầu và trả lời.
    - Tao không đi sâu vào chi tiết gia đình Duyên, nhưng theo tao nghĩ có lẽ vì gia đình anh em nó..! Nó hy sinh..! Tao nghĩ vậy thôi...!
    Tôi xót xa cho tình tôi, tình nàng mặc dù chúng tôi chẳng nói với nhau lời yêu thương và hứa hẹn nào, nhưng trong lòng chúng tôi đã tự có nhau, và tình yêu cứ thế âm thầm và len lén lớn lên trong hy vọng, nhưng hy vọng của nàng tựa như ánh sáng trên ngọn tre về chiều, và áng sáng đó đã vào đêm sau khi tôi dửng dưng bỏ nàng cắp quần áo vào nhà tập Lasan theo lời dạy của cha mẹ. Tình yêu của chúng tôi đến rồi đi như chiếc lá xuôi dòng nưóc đang chảy ra biển chẳng bao giờ quay lại cội nguồn, và mất hút trong giông bão đời người.
    Tôi cúi đầu nghĩ tới những kỷ niện xưa và đọc cho Châu nghe bài thơ ngày cũ Diễm Diễm đã tặng tôi, trong khi Châu vỗ vai tôi.
    - Thôi Nguyên à! Tất cả đều là số mệnh, nên quên đi! Mày và tao chỉ còn nửa đời để sống thôi..Xứ lạ này đã làm chúng mình buồn nhiều rồi...! Mang vào lòng chuyện tình buồn làm chi nữa cho khổ thân.
    - Ừ, tao cố quên...! Và sẽ cưới Mỹ Thanh để gởi gấm thân già. May ra đời tao được yên và thầy mẹ tao vui ở cuối đời.

    ************************

    Tiệc cưới của Tâm, người bạn già xưa đã ly dị vợ rồi lấy vợ cũng đông đảo làm tôi chật vật đi kiếm bàn số 5 như người tiếp viên đã nói, bỗng Châu đứng sau vỗ vai.
    - Nguyên mày cũng xuống à..?
    Tôi quay lại nhìn Châu gật đầu.
    - Nó gởi Châu mời thì tao phải xuống thôi, bạn bè mà, bỏ nó thì thương, mà vương vào nó thì tội cho mình!
    Thằng quỉ này đào hoa từ thủa mới sinh...!
    - Mày đi một mình?
    - Ừ, tao đi một mình, Mỹ Thanh ở nhà, vì nàng không quen vào những chỗ đông nguời.
    - Mẹ kiếp, tao thấy mày có phươc đó..! Mỹ Thanh hiền và đảm đang quá ...! Nàng lo cho mày nhiều hơn là mày lo cho nàng..
    - Phước hay họa tao đều không màng tới. Thân tao 12 bến nước trong nhờ đục chịu. Tình đầu hay tình cuối cũng thế thôi...! Đời tao lận đận về tình nhiều chứ không lận đận công danh..!
    Châu nháy mắt và ra dấu cho tôi quay về hướng phải của hắn rồi nói.
    - Mày nhìn qua bàn bên phải của tao xem có ai ngồi đó hay không? Tao và mày sẽ vào bàn đó. Tao biết mày sẽ đi một mình nên bảo thằng Tâm xếp chỗ cho mày và tao.
    Tôi vừa đưa mắt nhìn vào bàn mà Châu chỉ, mắt tôi đã đập ngay vào sóng mắt của Diễm Diễm, nàng đã nhìn và quan sát tôi tự bao giờ tôi không hay. Tôi ngỡ ngàng ngó nàng, và biết nàng xúc động khi hai sóng mắt hai đứa vừa chạm nhau. Diễm Diễm của tôi bây giờ ngồi đó, nàng nhìn tôi bằng đôi mắt buồn vời vợi trong nỗi mừng cho tôi đã thoát khỏi Việt Nam và an bình cuộc sống nơi xứ lạ. Tuy nhiên ánh mắt buồn của nàng chợt thoáng nét vui trên gương mặt rồi mất hút sau đó trả lại sự yên lặng xa xăm. Nàng rất gần tôi vai sát vai trong tư thế ghế ngồi sát chật của buổi tiệc đông người, nhưng thật sự đã thật xa, và tôi cũng thật sự biết rằng sau sự bất ngờ gặp lại hôm nay tôi sẽ mất nàng vĩnh viễn, tôi cố giữ bình tĩnh gật đầu chào nàng, sau đó ghé tai Châu:
    - Sao Duyên ở đây? Tao tìm nàng mấy chục năm...!
    - Mày hay thật..! Mấy chục năm xa nhau mà tụi mày còn nhận ra nhau, tao phục tụi mày..!
    - Duyên nhận ra tao?
    - Duyên nhận ra mày vì nụ cười khi mày đang chào hỏi bạn bề từ xa và mày trong khi mày đang đi tìm bàn và chỉ mày cho tao hay. Tao giả vờ nói Không phải mày, nhưng nàng nhất quyết là mày. Tao có nói với Duyên là mày từ San Jose xuống. Nàng ngạc nhiên và mừng rỡ nhưng sau đó yên lặng và tao hiểu được sự yên lặng đó.
    - Vì thằng Mỹ gồi bên cạnh đó phải không.
    - Tao không biết..! nhưng cũng có thể đúng... ! Châu trả lời.

    Tối ngồi bên cạnh Duyên như Châu cố dàn cảnh, và bắt tay mọi người trong bàn như phép lich sự xã giao, khi bắt tay Duyên tôi thấy bàn tay nàng run run và dường như nàng muốn nắm chặt lấy tay tôi, nhưng đôi mắt nàng thì thực sự đã chạy trốn.Tôi biết tôi đã mất nàng và chính tôi cũng chẳng còn gì để nói với nàng. Tôi cúi đầu hỏi nhỏ :
    - Diễm Diễm, John là chồng em?
    Mắt Diễm Diễm chợt ngước lên nhìn tôi với nét buồn vội hiện trên mi, nàng nói nhỏ.
    - Phải, Chồng em..! Nhưng nó ghen lắm..! Anh đừng nói gì về chuyện chúng mình nghe...! Em muốn yên thân lỡ rồi anh...!
    Tôi cười và nói với nàng bằng tiếng anh, vì tôi có hậu ý cho John biết chúng tôi chỉ là bạn.
    - Tóc đã bạc rồi còn gì đâu mà nói...! Chúc mừng cho Diễm Diễm, như vậy là anh yên lòng rồi. Mong John và Diễm Diễm, hai người luôn hạnh phúc.
    - Ủa, tại sao mày gọi Duyên là Diêm Diễm? Châu ngạc nhiên hỏi tôi.
    - Thì anh Nguyên ngày xưa đặt cho Duyên cái tên là Diễm Diễm để anh gọi cho riêng anh, Duyên tưởng là anh Nguyên đã thật sự quên, nhưng anh vẫn còn nhớ. Anh Nguyên à, - you are bad boy...!

    Tôi nhìn Diễm Diễm yên lặng gật đầu với nàng như ngụ ý tôi hiểu nàng muốn nói gì qua câu nói bằng tiếng Anh, mà ngày xưa nàng đã nói với tôi như một ngầm ý nhớ lại yêu thương thời tuổi dại mà chỉ nàng và tôi hiểu. Tôi bật cười thành tiếng, nâng ly rượu và cụng ly với mọi người. Tôi uống một hơi cạn ly như nuốt cả nỗi cay đắng vào lòng, sau đó tôi nói bâng quơ cho mọi người trong bàn nghe, nhưng tôi biết Diễm Diễm hiểu ý tôi muốn nói gì với nàng:
    - Đúng, tôi vẫn nhớ những kỷ niệm tình nghĩa bạn bè
    suốt một đời, gói ghém những yêu thương dấu kín trong lòng, đau xót vận nước ngả nghiêng, và nửa đời vương vào phận lưu vong.
    Những gì chúng mình tưởng rằng đã nắm trọn trong tay thì nó đã tự động mất đi bản thể và trở lại con số không to lớn.
    Khi nhận thức được sự thiếu xót mất mát, chúng ta lại phải làm lại từ đầu.
    Người tình và quê hương là hai nóm nợ phải trả, tuy nhiên tình có kẻ cố quên để làm lại từ đầu, nhưng quê hương chúng ta đã bỏ lại đang đau khổ bên kia bờ đại đương, và bây giờ nhìn lại với nỗi gậm nhấm tâm tư chưa hàn gắn không thể bỏ được.
    Một ngày nào đó những người Việt nội, ngoại sẽ qui tụ lại lập một Diên Hồng mới, sẽ lật từng trang sách, bóc từng viên gạch cũ nát của thời cuộc đã bị mục vỡ, để thay vào bằng một sự bắt đầu cho nền móng tự do trong yêu thương tự cường, và tình tự dân tộc, mà chúng ta đã chẳng đặng đừng hay vô tình chợt nhận thấy tất cả đã vuột khỏi tầm tay.
    Tình yêu đành dấu kín, quê hương nhất định phải ôm
    lấy như ôm mẹ...!

    XIN MỘT ĐỜI DẤU KÍN
    N.S. Lynh Phương phổ nhạc : Hương Diễm Tình

    Bốn mươi lăm năm gói tình kỷ niệm
    Lòng giữ hoài mái tóc ủ mộng mơ
    Tà áo xanh như bướm đùa với gió
    Trên lối về theo gót nhỏ tặng thơ

    Em có nhớ anh trao em cành phượng
    Hoa đỏ tươi màu giọt máu rung rinh
    Tặng em đó lời dấu yêu thầm kín
    Chiều nắng hồng, giọt nắng ấm lung linh

    Mang nghiệp lính gót giầy lê phố thị
    Tìm em hoài trong biển nhớ đông người
    Đã nhiều lần anh về con đường cũ
    Mưa gọi sầu, tình bão nổi chơi vơi.

    Sau chiến loạn anh phiêu bồng du tử
    Đời xứ người nửa kiếp lạc biển khơi...!
    Vẫn nhớ em tóc dài duyên răng khểnh
    Cành phượng hồng ôm kỷ niệm không lời...

    Chợt gặp em trong tiệc hồng bạn cũ
    Thoáng tiếng lòng réo gọi buổi xa xưa
    Tiếng hiên mưa như đêm sầu Ô Thước
    Nhìn theo em gót lạnh bước trong mưa.

    Em đã xa một đời không trở lại
    Ôm dấu yêu anh đợi bến sông Tương
    Mong dấu kín nhưng lòng chưa khép lại
    Cuộc tình buồn đời len lén sầu vương...

    Đời đã thế mong em tròn hạnh phúc
    Chẳng còn gì hai đứa đã hai nơi..!
    Tình còn đó nhớ tên xin đừng nhắc
    Mưa đêm nay như tiễn biệt một đời.


    Tặng Diễm Diễm
    San Jose July 21, 2006
    Chinh Nguyên
     
  5. administrator

    administrator Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    Thg 3 14, 2011
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Giới tính:
    Nam
    Nỗi Buồn

    NỖI BUỒN

    [​IMG]


    Một
    Sau khi tới Hà Nội ngày 15 tháng 11năm 2006 và trọ tại Hotel Khải Hoàn phố Cửa Đông, buổi chiều cùng ngày tôi gọi điện thoại thăm Bác Hai Hán, người đã đồng chí với cha tôi trong VNQĐD chống Việt Minh và Thực Dân Pháp vào những năm 1945-1950.
    Bác rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói của tôi Bắc, Nam không rõ ràng của miền nào.
    - Chào ông, Tôi Hán đây! Xin lỗi ai đấy giọng nói tôi chưa nghe bao giờ ?.
    Tôi yên lặng vài giây vì xúc động khi nghe được tiếng bác Hán, và sực nhớ tới những ngày còn bé tôi luôn được cha sai canh cổng mỗi lần bác tới nhà, để bác và cha tôi họp trong buồng ngủ của cha mẹ tôi. Sau khi họp bác ra phòng khách ăn cơm và nói những chuyện không đầu đuôi hầu chờ đêm xuống lẻn ra cổng lẫn vào bóng tối.
    Tôi chưa nhìn thấy bác nhưng qua giọng nói, tôi biết bác đã như con ngựa già đứng bên máng cỏ trong sự chán nản bức chế của chế độ Cộng Sản, mà bác đã sống một đời như tù lỏng.
    Bác đang chờ thời gian ra đi vĩnh viễn bỏ lại chuỗi ngày tuổi trẻ đầy nhiệt huyết năm xưa. Cái tuổi mà cha tôi và bác thời 25, 30 tuổi với nhiều mộng ước đầy ắp trong lòng như mọi người dân Việt yêu nước mong cho quê hương được an bình thịng vượng, và trở thành con rồng kinh tế muốn vượt mây bay vào trời Đông, nhưng thế thời đổi thay và lòng người oan nghiệt, cha tôi đã ra đi nơi xứ lạ để lại lời trối trăn cuối cùng vẫn là quê hương nghìn trùng muốn quay đầu lại.
    Bác Hán còn đó với những năm dài sống dưới chế độ khủng bố hà khắc nhà tù cả nước nhưng vẫn giữ lòng như tre trúc, một mai bác cũng héo tàn với ước mong đã vượt khỏi tầm tay.
    Tôi cũng vậy lại bước theo chân cha, và bác Hán, nửa đời mang ước vọng tay súng chinh nhân, nhưng nửa đời mang thân tầm gởi sống nhờ xứ ngoại...!
    Đời rồi cũng tàn phai theo ngày tháng, cái trí dũng cũng bạc nhược theo đôi chân mỏi lưng còng, cha tôi, bác Hán và tôi sẽ chẳng còn gì đẻ níu kéo, họa chăng chỉ còn nỗi nuối tiếc kỷ niệm xưa, tuy nhiên Bác Hán đã phải sống dưới chế độ Cộng Sản từ ngày 1954 tới bây giờ như con hổ trong cũi của Thế Lữ.
    Tiếng bác bên kia đầu giây có vẻ vội vàng:
    - Vâng, tôi Hán đây. Có nghe được không?
    - Dạ, cháu nghe được. Chào bác Hai Hán.
    Bác Hán ngạc nhiên, khi nghe tiếng người lạ gọi tên ông trong những ngày tuổi trẻ.
    - Ai đấy? Sao tiếng nói lạ quá...! Sao biết tên củ của tôi vậy ? Cháu nào vậy ?
    Tôi nhỏ nhẹ nói chậm để bác nghe rõ, vì tôi nghĩ bác đã lãng tai:
    - Dạ cháu là con ông Ký Tình. Cháu tên Trống
    Vừa nghe tới hai chữ Ký Tình, bác dường như mừng với những câu hỏi liên tục :
    - Thằng Trống... lạy trời ? Cháu ở đâu vậy? cha cháu ra sao ? khoẻ không ? Sao cháu biết số phone của bác ? Chắc cháu lớn lắm rồi nhỉ ? Ta đang ngồi chờ cha của cháu về...!
    Tôi bùi ngùi xúc động nghe bác nói chờ cha tôi về. Tôi nghẹn ngào rơi nước mắt trả lời bác Hán:
    - Cha cháu mất ba năm nay rồi..!
    Bên đầu giây bác Hán bỗng yên lặng và dường như máy điện thoại bị rơi xuống sàn nhà vì có tiếng động mạnh. Tôi nghe tiếng thở dài của bác, và sau đó là tiếng nói trĩu buồn buông suôi...!
    - Chết trong Nam à ? Vậy mà ta cứ ngồi chờ mãi..!
    - Không, cha con mất tại Mỹ.
    - Ồ...! Bố con cháu bỏ làng đi ngày đó, ai ngờ đi xa quá nhỉ...! Xa quê hương, làng nước chắc buồn lắm cháu nghỉ...!
    - Dạ, bố cháu nhắc bác hoài...!
    - Mẹ cháu còn không ?
    - Dạ, mẹ cháu hiện nay đang sống tại BMT, với các em của cháu.
    - Không sống ở Mỹ à ?
    - Dạ, mẹ cháu sống ở Mỹ hơn hai mươi năm, sau khi cha cháu mất mẹ cháu đòi về Việt Nam.
    - Ồ...! Quê hương mình vẫn hơn...! Quê người lạc lõng mẹ cháu về là phải. Thế cha cháu nằm bên đó thì sao ?
    - Cháu đang nghĩ tới mang xác cha cháu về quê như lời trối lại của cha cháu...!
    - Cháu làm được như vậy thì cũng tốt đó. Ta sẽ đi nay mai chẳng biết chừng...! Ta hết kẻ để chờ rồi...! Bạn bè đồng chí không còn ai...!
    Tôi nghe tiếng thở dài bên kia đầu giây, sau sự im lặng vài phút bác tiếp:
    - Bác với bố cháu thương nhau lắm. Thời hoạt động bố cháu làm thư ký nên bố cháu có cái tên là Ký Tình, nhưng bố cháu tên thật không phải là Tình đâu.
    - Dạ, cháu có nghe bố cháu kể lại.
    - Bố cháu nhắc tới ta cho cháu nghe là phải, ta cũng nhắc tới bố cháu luôn, đồng chí liên tâm mà...! Ta chỉ mong thấy bố cháu một lần, ai ngờ bố cháu đi trước ta rồi. Chắc chết chúng ta sẽ gặp nhau...!
    - Dạ.
    - Thôi nhé...! Nói điện thoại bác phải nói lớn mệt lắm, cháu tới nhà bác, rồi bác cháu mình nói chuyện nhé.
    - Dạ.
    - Cháu có biết địa chỉ không ?
    - Đạ cháu có địa chỉ của bác
    - Ai cho cháu vậy ?
    - Anh Lương.
    - Lại thằng Lương, con thằng Tựa...! Bốn anh em chúng nó là Cộng Sản, có quân hàm lớn đó cháu biết không ?
    - Dạ, mẹ cháu nói.
    - Ừ... Thôi, ta già rồi, nhìn thấy chúng nó lớn lên từ nhỏ, nên không đành từ chúng nó, hơn nữa chúng là con cháu cả, cũng như cháu vậy đó.
    Chúng không làm gì bác vì bác gìa rồi, nhưng cháu thì phải coi chưng đó nghe. Nếu cháu theo chân cha cháu mà chúng biết được thì nguy.
    Tôi nghĩ tới mấy người anh họ, mấy mươi năm mới gặp qua lời giới thiệu của mẹ khi vừa gặp họ ở BMT,
    vì khi tôi bỏ làng họ chưa sinh ra. Anh em gặp nhau, kể cho nhau nghe vài chuyện bâng quơ thiên hạ sự xã giao không dính líu gì tới chính trị. Tôi tiếp họ bằng những ly trà đàm đạo thân mật chuyện gia đình trong Nam, ngoài Bắc và nước Mỹ, và sau khi họ về nhà mẹ vẫy tôi lại gần, bà ôm đầu tôi và ghé tai thi thầm :
    - Con phải cẩn thận nghe. Tụi nó quỉ lắm đó, chớ có tin cái thứ Cộng Sản bất nhân ! Cha con còn bị cha của tụi nó muốn giết thì con tụi nó nể nang gì con...!
    Tôi không muốn bác Hán phải lo lắng nên gỉa bộ cười qua ống nghe và nói:
    - Bốn người Anh Khuông, Lương, Kho, Nhạn là anh em họ phía bên mẹ của cháu, chắc không có chuyện gì đâu. Giọt máu đào hơn ao nước lã mà bác..
    - Đúng, tụi nó là anh của cháu đó, tuy nhỏ tuổi hơn cháu, nhưng chớ tin nghe cháu, Khác nhau chính kiến khó nói chuyện lắm, nhất là những thằng Cộng Sản như bốn an hem nó. Cha chúng nó đòi xử tử cha cháu ngày đó, nên cha cháu mới đành bỏ làng, cháu biết không ? Thôi bác gác máy, cháu tới bác nói cho nghe, nói qua điện thoại không tiện đâu. À quên thằng Khuông có biết cháu về VN và đang ở Hà nội không?
    - Cháu vừa gợi điện thoại cho anh Khuông.
    - Cháu bảo nó chở tới ta nhé, nhớ đó.
    Tôi gấp lại cell phone trong khi lòng trùng xuống với những kỷ niệm như một phiến buồn đè nặng trên lưng mà tôi không thể hất ra để đứng dậy..!
    Lời nhắn nhủ của mẹ, câu dặn dò của bác Hán cho tôi để làm kinh nghiệm sống đối với những người con của bác Tựa cuốn xoáy trong trí, và hầu như đã bắt buộc tôi phải có sự lựa trọn tình thân anh em hay thù hận nối dòng...!
    Tôi sực nhớ câu ông nội dặn khi tôi vừa tám tuổi : "Cháu phải nhớ, chớ coi con cháu thằng Tựa là anh em, dù ông đã mất đi...!"
    Tôi thở dài tự nói thầm : Ông à, chắc con không thể giữ lời hứa với ông ngày đó rồi...! Mỗi thế hệ mỗi đổi thay... Con không thể mất đi tình người, anh em như thủ túc mà...! Cha con cũng nói rằng : Chú, Bác của con có thể giét cha, nhưng cha không thể làm những gì chúng có thể làm, vì cha còn tình người...!

    Tài xế của anh Khuông mặc bộ đồ bộ đội, anh ta có vẻ cố tình giữ yên lặng và khoảng cánh giữa tôi và anh ta. Tôi hỏi điều gì anh ta trả lời, không hỏi anh ta yên lặng làm bổn phận như người máy. Suốt quãng đường từ Hotel Khải Hoàn tới Phố Huế anh ta chỉ nói có hai chữ dạ, vâng và lái xe đưa tôi tới nhà bác hai Hán vào buổi chiều sau ngày tôi điện cho bác Hán. Tôi tặng người tài xế của anh Khuông năm đô la để nhìn hành động của anh trước khi tôi bước xuống xe để vào nhà bác Hán. Tôi thấy mắt anh ta sáng lên, miệng anh ta lúc này mới mỉm cười thân thiện và cúi đầu nói được câu ngắn gọn:
    - Cám ơn ông, Nhưng ông đừng cho ai biết chuyện này.
    Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta, và lập lại hai chữ của anh Luông thường nói với tôi để nói với anh tài xế tên Thụ .
    Ai mà nói chuyện này với ai..! Chú cứ "vô tư" đi.
    - Dạ.
    - Anh lái xe về nhà đừng đi đâu nghe, kẻo anh Khuông cứ tưởng tôi lấy xe của anh đi chơi phố.
    - Dạ, cháu không dám lái xe này đi phố đâu. Ông biết được thì chết cháu ngay.
    Bác Hán đã đứng ở cửa nhìn tôi mừng rỡ, bác vừa chậm chạp bước tới bên tôi vừa nói :
    - Nó không dám mang xe đi chơi đâu, cho kẹo nó cũng không dám ăn huống chi mang xe đi chơi.
    Bác với tay vẫy anh Thụ, nói tiếp:- Thôi Thụ à, cháu mang xe về trả cho thằng Khuông nghe, thằng Trống ở đây nói chuyện cà kê với ta lúc nào về sẽ gọi xe taxi, khỏi đón.
    Tôi bước vội tới ôm lấy bác Hán như ôm cha tôi với vài giọt lệ xúc động lăn dài trên má. Bác thấy vậy vỗ lưng tôi an ủi:
    - Tủi thân làm gì con...! Bác cháu mình có duyên gặp lại nhau ngày hôm nay là quí rồi, chỉ tiếc vắng cha cháu. Ngày đó cháu nhỏ tí, đen đủi, nhanh như cắt, nay tóc con đã bạc rồi...! Con giống cha quá, ta nhìn là nhận ra ngay.
    Tôi quay nhìn xung quanh, và thấy có vài người gọi bác bằng cha. Tôi ngạc nhiên hỏi.
    - Ủa, Bác gái có mấy anh sao ? Con nhớ ngày đó bác gái muốn nhận con là dưỡng tử mà...!
    Bác hai Hán nét mặt bỗng trùng xuống, thở dài:
    - Bà ấy qua đời lâu rồi, sau khi gia đình cháu suôi Nam. Ta trốn Cộng Sản bặt tin trong khi muốn tìm cha cháu, thì nghe cha cháu đã dẫn gia đình suôi Nam rồi. Bác thất trí, buồn phone đi lung tung trong khi bà ấy kiếm ta rồi mang bệnh mất giữa đường. Ta quay về tìm bà thì đã trễ rồi.! Các em sau này là con của người vợ kế của bác.
    - Bác à, anh Khuông bận nên anh xin lỗi bác, để bữa khác anh tới thăm bác.
    Bác hán khoa tay nói:
    - Nó không tới càng hay. Bận cái gì...! Bận việc kéo bè kéo đảng với nhau để ăn cướp chứ có gì đâu, ta sống cả đời với chế độ này, chúng nó làm gì ta cũng hiểu...!. Ngày mai là ngày ông Bush qua họp APEC, nên nó bận là phải rồi, bận đi xin ăn đó mà...!
    Sau khi ngồi xuống ghế trong phòng khách và hỏi thăm bác vài câu về sức khoẻ và gia đình, tôi chợt nhớ tới chuyện hôm qua bác Hán nói bác Tựa muốn xử tử cha tôi nên tôi tò mòø :
    - Hôm qua nghe Bác nói anh Khuông là con bác Tựa. Nhà bác Tựa ở gần cổng nhà bà ngoại cháu phải không ?
    - Đúng rồi, cháu nhớ dai thật.
    - Lúc cháu bỏ làng đã chín mười tuổi rồi, cháu còn nhớ nhiều lắm đó bác.
    - Quê mình nghèo, làng lại nhỏ có bao nhiêu người đâu mà không nhớ...!
    - Bác Tựa là anh họ mẹ của cháu. Như bác nói hôm qua, tại sao bác Tựa lại muốn xử tử cha cháu vậy ? Cùng gia tộc mà...!
    Bác Hán nhìn ra ngoài trời qua khung cửa sổ, nắng chiều nhạt nhòa, có hơi ẩm của gió thu Hà Nội lùa nhẹ vào phòng, trong khi Phố Huế ồn ào tiếng động cơ của xe gắn máy, và đường như thành phố lớn nhỏ gì của VN cũng đều bị tra tấn bằng những tiếng động cơ này suốt ngày qua đem. Bác quay lại nhìn tôi với đôi mắt buồn vời vợi, lắc đầu bác nói:
    - Trong làng chỉ có bố cháu và bác theo cách mạng chống Việt Minh, thực dân Pháp, vì ta và cha cháu ăn học ở Hà-Nội, trong khi cả làng trai tráng đều học ở làng hoặc huyện tới lớp nhất là hết về làm ruộng nên họ nghe Việt Minh tuyên truyền đi làm du kích, trong đó có chú Quân của cháu và thằng Tựa là chủ chốt đầu đàn. Như cháu đã biết thằng Quân đã chỉ súng lục vào đầu bố cháu trong khi anh em cãi vã nhau, có điều thằng Quân không bóp cò thôi.
    - Chuyện này cháu biết, vì lúc đó cháu ở bên bố cháu mà.
    - Còn thằng Tựa, lúc đó nó là tiểu đội trưởng du kích huyện Phú Xuyên, nó ra lệnh cho thằng Quân bắn bố cháu, thằng Quân nghĩ sao không bắn, và bỏ đi mất tích sau 1954 nó mới về, vì cha cháu bỏ Pháp về làng, rồi lại mang cháu vào Nam.
    - Cái thời cha cháu và bác bỏ làng vào thành kể ra thì dài lắm, nhưng đại khái là thằng Tựa cho kẻ dưới quyền theo dõi bác và bố cháu sau khi thằng Quân không bắn anh ruột của nó. Bác và bố cháu biết nên chẳng ngủ nơi nào một đêm thẳng giấc. Một đêm bác và bố cháu bất ngờ bỏ làng nửa đêm trốn lên Hà-Nội. Thằng Tựa biết thì đã trễ mặc dù nó đã cho tiểu đội dưới quyền
    nằm nấp sẵn tại ngã ba của ba làng Bái Vàng,
    làng Vân và làng Hoàng Nguyên.
    - Vậy tại sao bác và cha cháu thoát khỏi chỗ ngã ba đó ?
    Tôi buột miệng hỏi.
    Bác hai Hán gật gật đầu có ve thú vị khi nghĩ về cuộc chạy đua với tử thần đầy nguy hiểm bởi chính anh em mình gây nên.
    - Cũng may bác và bố cháu đã không đi lối đó, bác và cha cháu đi qua lối làng Trằm lên đê Yên Phụ, nhẩy xuống thuyền trực sẵn ngược dòng vào Gia Lâm, rồi đi bộ qua cầu "Đuy-Me" vào Hà Nội.
    - Bác và cha cháu gan thật.
    Bác Hán bật cười, sau đó nói trong khi bác lên cơn ho :
    - Cha cháu gan hơn ta...! Nếu không có cha cháu thì ta đâu có bỏ làng Thành Lập mà đi. Cha cháu rủ ta bỏ làng đấy chứ...! Thằng Tựa biết bác và bố cháu đã đi, nhưng nó không biết bác và cha cháu đi lối nào, nên nó vội vã chẳng nói gì với toán du kích huyện, cứ thế đuổi theo lên lối ngã ba làng nhưng không ngờ khi nó tới ngã ba thì chính toán du kích của nó bắn nó tử thuơng trong lúc sương mù không nhìn thấy chính xác là ai. Nhờ đó mấy thằng con của nó lên tướng lên tá gớm thật...!
    Tôi ngạc nhiên hỏi:
    - Tại sao, bác Tựa chết vì du kích bắn lầm mà các anh con bác lại lên cấp bậc mau lẹ trong chế độ Cộng Sản.
    - Cháu không biết là phải. Tụi CS siêu tra ba đời làm cách mạng theo đảng. Mấy đứa nó khai là bố nó bị giết trong khi thi hành nhiệm vụ bắt Việt Gian. Đảng CS tin đó là thật nên tụi nó được nâng đỡ từ 1954 tới nay. Tài cán gì...!
    - Anh Khuông nói với cháu anh có qua Liên Sô và Tiệp Khắc học Đạo Diễn quay phim. Chắc anh phải khá lắm chứ.
    Bác Hán Lắc đầu.
    - Học mà có hành hay không chứ. Nó về VN sau khi du học có làm đuợc cuốn phim nào đâu. Toàn là nghe cấp trên mang phim tài liệu đem bán rẻ cho Hòa Lan rồi chia nhau tiền, bây giờ nếu cần tới là lại phải trả tiền mướm đắt gấp mấy lần đem bán...! Ngu ơi là ngu...!
    - Cháu đã nghe anh nói bỏ nghề đạo diễn rồi mà...!
    - Đúng..! Mà phim CS quay ai mà coi, toàn chuyện bịa đặt để tuyên truyền không à..! Ta kiên nhẫn coi phim CS làm mấy chục năm rồi, chẳng có gì mới mẻ cả, chỉ những tung hô bác Hồ, chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bám hào quang của Điên Biên Phủ. Nếu có hô hào và bắt buộc chiếu ngoài trời để tâm lý chiến thì dân mới đi coi, bình thường đâu có thì giờ mà coi. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc coi cái gì chứ.
    - Dạ
    Bỗng bác Hán hỏi tôi, sau khi tôi đứng dậy chào bác ra về.
    - Bao giờ con về lại bên Mỹ.
    - Dạ, có lẽ sau khi hết ngày khế ước du lịch này là con về Sài Gòn sửa sọan về Mỹ.
    Giọng bác Hán bất ngờ trùng xuống.
    - Thôi, lần này là lần cuối bác cháu mình gặp nhau, đó là cái phước của bác cháu minh rồi. Con luôn giữ lòng nghe, bác có thể ra đi bất cứ lúc nào. Con về lần sau có thể không gặp bác nữa đâu...!
    - Dạ, con nhớ những gì bác đã nói với con hôm nay...!
    Tôi quay người bước vội qua cửa phòng khách, bước khỏi hiên nhà và rẽ phải để đi bộ về bờ hồ Hoàn Kiếm. Tôi biết bác Hán đứng nhìn theo bước chân tôi chạy trốn, bởi tôi biết rằng tôi không thể ôm hận thù cả cuộc đời được như bác, và mẹ tôi...!
    một thế hệ đã dần đi vào quá khứ nhưng cố ôm lấy dĩ vãng đau thương...!
    Tất cả rồi cũng tàn, tham vọng bá vương rồi cũng bị hủy diệt theo thời gian và lòng yêu chuộng nhân bản. Cát bụi vẫn là cát bụi phù du..! Tôi chỉ là viên gạch về lại quê hương làng cũ muốn xây lại êm ấm tình anh em dòng họ, một ước bọng nhỏ nhoi mà tôi không muốn mất đi...! Xin lỗi cha mẹ, xin lỗi bác Hán, đường con đi sự thật quá dài và khó khăn trong khi oan nghiệt chính kiến trùng trùng nghiệt ngã trong dòng họ. Ai sẽ chĩa mũi súng vào đầu ai đây, và ai sẽ bóp cò súng đẻ giết lẫn nhau...!
    Anh em là thủ túc, dân tộc là phương tiên đựa vào để sống còn, và cá nhân là cứu cánh thực hành những điều nhân bản phải có để con người vươn lên trong tự do toàn thiện., Con muốn xoay lại tư thế và tư duy trong lòng các anh em để xây dựng một thế hệ trong sáng hơn...!
    Bất ngờ trước mặt tôi là bờ hồ Hoàn Kiếm đông người qua lại, với những ánh đèn màu muôn sắc soi xuống dòng nước lung linh huyền diệu, thấp thoáng giữa hồ trong sương thu và ánh đèn lấp lánh trong sóng nước là đền thờ Le-Lai yên lặng soi hình đã bao năm...! Lê Lai cứu chúa...!

    Hai
    Tôi theo anh Khuông về làng, Làng Thành Lập và làng Vân cách nhau con đường cái lớn xe hơi có thể đi vào giữa hai làng.
    Nếu đi từ Hà-Nội trên quốc lộ số một và lái nửa vòng cua ở lối thoát gần cầu Guột, rẽ trái chui qua cầu về làng cách Hà Nội khoảng 15 cây số.
    Hơn năm mươi năm, nhưng tôi còn nhớ con đường lớn ở giữa hai làng Thành Lập, và làng Vân đã lót gạnh để dùng chung hầu chuyên chở ngũ cốc từ ruộng về nhà bằng xe bò hoặc gánh, và chiều về những con trâu, bò được những đứa bé dắt hay cưỡi trên lưng về chuồng cũng trên con đường này. Theo thời gian gạch trên mặt đường đã không còn, thay vào mặt đường là một lớp nhựa mỏng trải lên trên những đá sạn nhỏ , nên nhiều chỗ đã rộp trơ đất đã không được sửa chữa, và hẹp lại vì đôi chỗ đã lở lấn vào mặt đường.
    Tôi lạc lõng đi tìm từng lối mòn cũ sau khi hỏi anh Khuông cái đình có cây đa rợp cả góc sân ở giữa làng Vân, cái giếng nước cả hai làng đều gánh về nhà dùng ở đầu làng và Khải bạn tôi con Ông trưởng bạ Tỵ, và được anh Khuông trả lời:
    - Đình Làng Vân, cái giếng thì còn đó, nhưng Khải đã chết lâu rồi, để lại bốn con và vợ Khải là dì Tám con Ông Xã Cách ông cậu họ của mẹ tôi.
    Tôi bùi ngùi nhớ tới Khải, người bạn thủa nhỏ cùng ngõ, nhưng khi mười tuỏi Khải đã vì muốn lấy công với cán bộ du kích khi thiếu nhi họp kiểm thảo hàng tuần mỗi chúa nhật tại sân nhà thờ . Khải đã tố cáo tôi lẻn vào vườn nhà ông Vường hái trộm ổi cho nó ăn. Tôi đã sững sờ nhìn sác mặt đanh lạnh của nó và cố cãi :
    - Khải, mày xui tao vào vườn hái ổi cho mày ăn sao mày lại tố tao ?
    - Tao xui mày, nhưngtao không hành động, còn mày hành động, do đó mày có tội. Khải nhìn tôi trả lời không có một chút sượng sùng.
    Tôi chỉ mặt Khải, vừa khóc vừa nói :
    - Mày là thằng phản tao.
    Thế là từ đó tôi và Khải chơi với nhau bằng sự lừa dối nhau và e dè bị Khải mang tôi ra đấu tố trước mặt bạn bè cùng lứa.
    Bất ngờ chiến tranh ập tới với bom, đạn pháo đổ vào làng, và tôi theo mẹ bỏ làng không về từ đó. Dường như mỗi bước chân tôi đi là mỗi ngày một xa dần quê hương, mặc dù long tôi đôi khi quay về với nỗi nhớ mơ hồ hình ảnh cũ.
    Trươc mặt tôi là con đường cữ, những lối mòn xưa nhưng kỷ niệm cũ đã không còn bởi vì tôi đã không còn tìm ra những gì tôi cất dấu trong tâm khảm, thực thể cũng như những giấc mơ hồng làm tôi ngỡ ngàng. Bạn bè nhiều đứa đã ra đi vĩng viễn, những thằng còn lại trông già trước tuổi tới mười năm.
    Đứa nào da cũng nhăn nheo bọc xương khô đét như cành củi, trong bộ quần áo có mấy miếng vá chằng chịt khác màu nhau, đôi mắt sâu mất thần mệt mỏi trên khuôn mặt gầy gò lồi lõm khắc khổ và mái tóc thưa vài sợi bạc trắng, và mỗi lần tình cờ tôi gặp một người gạn cũ trên đường, là mỗi lần tôi nhìn thấy nụ cười của họ méo xẹch như muốn khóc cho nỗi cơ hàn mà họ đã chịu đựng bao năm, tôi lại dúi vào túi rách của họ vài đồng đô đẻ an ủi và cũng đẻ giữ lại tình bạn của thơi quần xà lỏn chăn trâu năm xưa.
    Tôi là kẻ chỉ đủ ăn nơi xứ ngoại tầm gởi, nhưng đã trở thành áo gấm về làng trong cặp mắt than phục của dân tron glàng và bạn bè thơ ấu cũ, sự thể này đã làm tôi đau long và xót dạ khi nhìn thấy những nóc nhà tranh xiêu vẹo nghèo nàn vẫn còn đó trong làng tôi.
    Mấy ươi năm sống dưới chế độ Cộng Sản làng tôi vẫn không thay đổi được cái cốt lõi đi chân đất, cuộc sống trong căn nhà lụp sụp, bữa cơm độn khoai sắn nấu bằng rơm khô, và những trai gái trong làng đều quằn lưng cúi xuống trên cánh đồng lúa cả bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nhưng thình người trong họ vẫn vươn lên trong những cuộn khói lam chiều bằng bạc bốc ra từ nóc rạ.

    Tôi đi theo con lộ làng tìm tới ngôi nhà thờ ngày xưa tôi thường theo ông nội mỗi buổi sáng chúa nhật. Mái ngói và tường nhà thờ đã đen vì rêu theo năm tháng lên dầy. Tháp chuông cao vút còn đó yên lành trong bao năm chiến tranh, và con sáo sậu đang đậu trên cây thập tự gía đứng dương cổ hót vang tìm bạn.
    Lòng tôi bỗng dâng nên nỗi nghẹn ngào khi nhìn những đứa trẻ vô tư chơi trên sân, tuổi thơ tôi ngày trước diễn ra y hệt như nhóm trẻ đang vui đùa, chạy nhẩy và gọi nhau inh ỏi vang xa cả xóm bên cạnh nhà thờ. Tuy nhiên lối chơi của chúng tôi ngày đó khác với lối chơi bấy giờ của đám trẻ đang chơi trước mắt tôi.
    Chúng tôi chơi những trò chơi tập trận gỉa, tập làm du kích bắn Tấy và tập làm kẻ đưa thư mật trong đám đông và cuối cùng trả lời những câu hỏi của anh chị du klích về gia cảnh cha mẹ đang sống do cán bộ du kích hướng đẫn. Đôi khi vắng cán bộ chúng tôi trở về với những trò chơi trẻ con như bịt mắt bắt dê, nhẩy dây v.v.. Nhưng bây giờ chúng đang chơi đấu võ, vật lôn, đánh khăng và chửi lộn tục tũi với tiếng hô bắn súng bằng miệng đùng đùng giữa buổi chiều không có tiếng chuông ngân để gọi tín hữu đọc kinh niệm. Chúng đã làm tôi nghĩ tới những tối trăng rằm học tập kiểm thảo tố giác lẫn nhau, để lấy điểm với mấy anh chị cán bộ du kích quân ngày đó. Những đứa trẻ làng ngây thơ đã được những bà mẹ quê đẻ ra để học đòi chiến tranh, và theo sự tuyên truyền đi tới giết người không ngần ngại như bác Tựa đã không biết gia tộc là gì. Họ vinh danh những đứa trẻ nào dám mang chuyện gia đình cha mẹ ra nói trong buổi học tập, và hô hào chúng tôi phải tranh đua với nhau trong sự đẽo súng gỉa bằng cây để thực tập bắn thực dân Pháp. Họ dạy chúng tôi làm cách nào dò hỏi tin tức để báo cáo cho du kích quân và họ đã dạy chúng tôi ca những bản nhạc tuyên truyền, nhưng sau khi về nhà cha mẹ chúng tôi lại chỉ dẫn phản ngược lại đường hướng cán bộ du kích chỉ dạy, do đó lòng chúng tôi chẳng được yên bình trong yêu thương mà toàn những nghi ngờ đố kỵ lẫn nhau.

    Vùng trời Đông anh hùng tươi sáng vùng lên...
    Đàn bồ câu trắng bay về trong nắng mới...
    Đàn bồ cấu xiết tay nhau...
    Súng búa liềm trên đường tranh đấu...
    tới hoà bình... Nhà máy vang rền lúa vàng...
    Đảng Lao Động Việt Nam là dòng máu...
    toàn dân đấu tranh...!

    Bây giờ những đứa trẻ trước mặt tôi đã không hát những bản nhạc tuyên truyền đấu tranh cách mạnh để kêu gọi giới trẻ hy sinh vì nước nữa, vì hiện tại đã không còn chiến tranh và quân thù mà chỉ còn dân nghèo với ách thống trị của đảng Cộng Sản trong đời sống người dân, do đó người Cộng Sản đã chuyển hướng tuyên truyền mị dân và dạy những đứa trẻ hát những bản nhạc ca ngợi Hồ Chí Minh như một vị thánh, như người cha của dân tộc và vinh danh HCM như một huyền thoại trong nhân gian miền quê hầu người dân dễ tin để tiếp tục hy sinh cho đảng. Cũng như cán bộ chính trị làng đã dạy cho các em luôn luôn có đảng và vì đảng để làm bất cứ chuyện gì với thực chất tam vô trong chính sách mị dân của họ.
    Những bạn xưa của tôi bây giờ đã vắng bóng, chỉ còn tôi đứng cô đơn tưởng lại hình bóng mình qua lũ trẻ dại dột ngây thơ quê mùa như tôi ngày cũ.
    Tôi nhìn đường thẳng của hai cánh cửa chính của nhà thờ với hai cánh nặng nề đã khép, tự nhiên tôi mỉn cười bước tới đẩy thử xem cánh cửa có mở ra như thủa nhỏ tôi cũng đã làm để lẻn vào trong nghịch ngợm, phá phách một mình một cõi không ngưng tay với chiếc quần sà lỏn đen đủi dơ bẩn không áo, và mớ tóc rối bù bên trong nhà thờ. Tôi đã dùng cây sào thắp nến trên các bệ thờ cao để bắt những con chim sẻ non đậu trên đầu, tay các bức tượng. Tôi đã ham đưổi theo những con chim yếu ớt , cố tình đập những những con chim sẻ đang hớt hãi bay và đậu trên đầu, tay các bức tượng trên cao, nên vô tình đã làm đầu và tay các bức tượng vỡ nát rơi xuống sàn gạch làm vang lên những âm thanh lạnh sắc trong khung cảnh tĩnh mịch của trưa hè quê nội .
    Ngày đó tôi đã bị ông trùm coi nhà thờ bắt tại trận và dẫn tay trao cho mẹ vì lỗi lầm phá nơi tôn nghiêm. Tôi đã bị mẹ bắt nằm xuống giữa sân nhà phạt trận đòn để đời trước khi mẹ tôi đi Hà Nội mua những bức tượng khác đem về trả lại cho nhà thờ.
    Sau đó tôi bị đau nặng cho nên mẹ đã nói rằng : Chúa phạt thằng quỉ con phá nơi thờ phượng nhà chúa.
    Mẹ tôi lại phải cõng tôi đi thăm thày thuốc bắc bên làng Vân và sáng chiều đi nhà thờ đọc kinh xin lỗi chúa cho tôi được bình phục trở lại.
    Tuổi thơ tôi là cái ao sâu trước sân nhà thờ và cây gạo trổ bông đỏ. Trước khi tôi biết bơi trong ao, tôi đã nghe anh Kềm, người bạn lớn tuổi bắt con chuồn chuồn ngô cho cắn vào rốn để tập bơi, và sẽ dễ dàng bơi giỏi hơn mọi người.
    Tôi nghe lời anh đi săn bắt bằng được con chuồn chuồn ngô đang đậu trên ngọn cây bắp, can đảm kéo trễ quần sà lỏn, nhắm mắt, cắn môi, nhăn mặt dí miệng con chuồn chuồn ngô lớn bằng ngón tay cái cho cắn vào rốn đến chảy máu. Ấy thế mà tôi vẫn giả bộ anh hùng trước đám trẻ cùng lứa, và nụ cười mỉm hóm hỉnh của anh Kềm để can đảm nhảy xuống ao tập bơi. Nếu không có anh Kềm ngồi trên bờ chắc tôi đã bị chết đuối ngay chiều hè đó.
    Cái ao bên cạnh nhà thờ còn đó trước mặt tôi nhưng anh Kềm đã không còn và bạn bè nghich ngợm phá làng của tôi ngày cũ cũng đã chẳng có ai bên tôi trong nỗi buồn vời vợi hôm nay.
    Cây gạo hoa đỏ trên bờ ao cũng mang vào lòng tôi nhiều kỷ niệm vui buồn. Thủa vàng son tuổi dại tôi cùng Mến cô bé gần nhà thường dẫn nhau chạy tới gốc gạo để ngước cổ nhìn hoa rơi, và đuổi theo hứng từng cánh hoa rụng, vì nếu để hoa rớt xuống đất là hoa sẽ nát và tung ra chung quanh những giọt nước đỏ như máu.. Khi hứng được nhiều bông, chúng tôi xếp lại làm trò chơi bán hàng, hoặc trò cưới hỏi vợ chồng trẻ con với đám trẻ cùng trang lứa ngay bên gốc gạo.
    Gốc gạo già đã bị đào từng rễ vất đi, và Mến cũng chẳng còn là cô bé thơ ngây ngày cũ để làm vợ tôi trong tuổi dại khờ.
    Mến cũng đã già và 5 con đã lớn lên trong chế độ Cộng Sản, nên chúng cũng chẳng biết gì về tình bạn của mẹ. Đôi vai Mến gầy cũng như tất cả dân miền Bắc đã gánh cả đời chế độ khắc nghiệt và cuộc sống đói khổ của
    những năm chiến tranh kéo dài trên quê hương với hy vọng người dân có ruộng để cày sau khi đánh đuổi thực dân Pháp như Hồ Chí Minh đã nói trong ngày tuyên ngôn độc lập tại Ba Đình.
    Khi Cộng Sản đã cưỡng chiếm được Miền Nam, và thống trị cả nước, người dân miền Bắc tưởng sẽ đầy đủ vui sướng, tự do hạnh phúc hơn, và không còn hy sinh cho đảng CS.
    Không ngờ người dân quê miền Bắc nghèo lại nghèo thêm và lại phải hy sinh thêm cho đảng Cộng Sản nhiều hơn trước, vì cảnh Công An trị bá đạo lạm quyền trong luật lệ tàn nhẫn của CS để cướp đất ngang nhiên của dân nghèo để làm giầu...!
    Giai cấp đấu tranh của Engels, Karl Marx và Mao đã được thẩm thấu qua chính sách của Mao trạch Đông và Hồ Chí Minh đang áp dụng trên quê hương họ.
    Trước 75, dân nghèo miền Bắc đưọc đảng hướng dẫn tranh đấu bằng đấu tố giữa nhân dân với nhau để tàn sát tiểu tư sản và địa chủ hầu vươn lên thế giới đại đồng. Tiểu tư sản và địa chủ chết, dân bần cùng không còn ai để tranh đấu, đảng CS không còn mục tiêu để mị dân, họ đưa dân vào miền Nam gây chiến tranh bằng câu châm ngôn giải phóng dân tộc đuổi Mỹ như trước 54 chống Pháp làm thiệt mạng mấy triệu dân lành trong ý đồ bá đạo. Sau khi cưỡng chiếm miền Nam họ xoá sạch những gì miền Nam xây dựng để đi tới bao cấp cho những người mà họ cho là có công với nhân dân và dân nghèo toàn diện đất nước.
    Dân làm chủ mọi thứ theo chính sách miệng lưỡi CS, nhưng dân vẫn nghèo mạt rệp, trong khi các đảng viên chính trị bộ của đảng CS là nô bộc của dân lại giàu sụ và trở thành tư bản đỏ.
    Cuối cùng đảng CS đem người dân nghèo ra đấu tố để cướp quyền căn bản công dân và tự do ngôn luận của họ, Việt Nam trở thành nhà tù lớn nhất thế giới.
    Một đường lối tranh đấu giai cấp bánh vẽ chỉ có trong chế độ Cộng Sản ...!

    Ba
    Tôi đứng tiếc nuối kỷ niệm vàng son trong nắng thu về chiều, thỉnh thoảng có những làn gió hiu hắt từ đồng ruộng thổi ngang qua mang theo hơi ẩm và mùi hăng hắc của lúa gịa chưa khô trên cách đồng đang gặt.

    Tôi về đây gánh theo đời tuổi dại
    Nhớ ngày xưa cô bé đã chơi chung
    Nhìn hoa gạo chạy theo tay chụp bắt
    Ôm vào lòng sắc máu vỡ tơ nhung

    Gốc gạo già, thời gian đà thay đổi
    Đã đâu rồi hoa đỏ rụng trên không !
    Trong nắng chiều xa bay con chim sáo
    Cánh vỗ dập dồn vội vã sang sông

    Kỷ niệm đời vỡ tan ra từng mảnh
    Vội vơ vào sắp lại dấu yêu xưa
    Ôi thời gan chắt chiu nơi quê nội
    Hoa gạo giờ tan rã cánh trong mưa

    Năm mươi năm kỷ niện xưa còn nhớ
    Phím tơ chùng tóc đã trắng còn đâu.!
    Buồn đổ lệ bước đi lòng để lại
    Giữa hoàng hôn quê cũ một phiến sầu.!


    Tay cầm chiếc máy JVC hard disk Camcorder Everio, mắt nhìn vào đám cò trắng đang ồn ào kiếm ăn trên vũng ruộng nước ngập tới mắt cá chân, và thỉnh thoảng có con giật mình vì tiếng động đâu đó đập cánh bay vút lên, rồi lại từ từ hạ xuống. Tôi cũng đã làm chúng bất ngờ bốc cách bay tới ruộng nước khác cách xa tôi vài trăm mét, vì tôi bị ngã trên bờ ruộng hay vô tình để chúng nhìn thấy.
    Tôi cố gắng quay những cánh cò trên quê hương
    để làm kỷ niệm già lỡ mai không về, trong khi tuổi đời cũng đã gần thất thập chi thiên mệnh. Tôi cố chộp bắt những hình ảnh quê tôi vào lòng, thì tôi lại càng làm vỡ tan những yên tĩnh của đồng nội, vỡ tan những ký ưc xưa rối bời trong trí bởi xúc động như sóng vỗ dồn dập ùa về khi chiều nắng đã chênh chếc phía tây. Những con chim đang lượm những hạt thóc rơi trên ruộng khô thấy tôi chúng bỏ chạy, hay tung cánh bay đi, hoặc kêu vang gọi nhau tìm nơi an bình khác.
    Tôi càng kiên nhẫn bám sát đàn cò để thâu vào ống kính, thì những cánh cò lại luôn luôn chú ý tới tôi, chúng bắt đầu cảnh giác nhau bằng những tiếng kêu khác lạ như báo động cho nhau biết là có tôi đang theo chúng, rồi bỗng chốc chúng đồng loạt kêu vang, tung cánh vút lên trời trong chiều vàng bay về phía chân trời thật xa, chúng bỏ lại tôi bơ vơ nhìn những ruộng lúa vàng ngả ngọn trên cánh đồng đã có những đám mây xám kéo về.
    Tôi lang thang giữa cánh đồng lúa chín mênh mông đứng dõi mắt thật xa để tìm nóc nhà thờ hầu lấy phương hướng về làng.
    Tôi đang vấp ngã ì ạch và lảo đảo trên những bờ ruộng trơn chợt vì sấp nước, và tôi đã cười lớn để phục tôi
    sao ngày xưa tôi chạy trên những bờ ruộng lúa này không bị ngã ...hay thế!
    Bỗng có một bà cầm cái cuốc chạy tới bên hỏi tôi :
    - Ê Trống, mày còn nhớ tao không ?
    Tôi chợt liếc nhanh bà ta với chân lấm tay bùn cầm cái cuốc và quần áo chẳng lành, đội chiếc nón hơi rách cạp, và tóc cũng đã hoa râm, với da nhăn cằn cỗi. Tôi đoán chừng bà ta khoảng 70.
    - Tôi không còn nhớ bác là ai, tôi xin lỗi bác. Sao bác biết tên tôi ? Tôi lúng túng trả lời.
    Bà ta bật cười :
    - Xin lỗi cái con khỉ. Tao thấy có người lạ về làng và hỏi thăm mới biết mày về làng đấy chớ. Mày còn nhớ quê là hay lắm, nhiều người đi rồi không về. Họ quên luôn, hay chết mất xác nơi xứ người..!
    - Tôi về đây lần này là lần thứ hai. lần trước tôi về có khoảng một tiếng đồng hồ rồi đi ngay. Bác là ai vậy sao tôi không nhớ được...!
    - Vậy à...! Chăc tao gìa lắm rồi nên mày nhận không ra ...!
    Tôi nhìn kỹ người lạ một lần nữa,i lắc đầu.
    - Thú thực tôi không biết bác là ai. Tôi bỏ đi lâu quá rồi. Đối với ai trong làng này đều lạ đối với tôi.
    - Hồi còn nhỏ tao và mày ưa chơi bắt ú tim ở sân nhà thờ.
    - Mày không nhớ tao thật à ?
    Tôi thắc mắc nhìn lại bà ta lần nữa để tìm kiếm trong
    kỷ niệm thủa nhỏ, may ra nhận được người lạ là ai.
    Nhưng tuyệt nhiên tôi không tìm ra một chút gì gợi nhớ cho tôi. Tôi lắc đầu.
    - Thật tình tôi không nhớ bác là ai.
    Bà ta lại cười một cách thân mật :
    - Bác cái đếch gì! Mày quên cũng phải thôi...! Tao quê mùa tối ngày trong làng không đi ra khỏi ruộng lúa. Tao nhỏ tuổi hơn mày. Tao là cái Sao con ông Chương ở làng Vân có cây nhãn trước nhà, mày thường tới trèo lên hái nhãn cho tao ăn.
    - Mày nhớ chưa ?
    Tôi nhíu may suy nghĩ, và hình ảnh ngày xưa tuổi dại hiện ra.
    - Ồ ra Sao... Mấy cháu rồi...! Xin lỗi nghe, tôi quên Sao thật đấy...!
    Tiếng Sao cười vang.
    - Ba đứa, hai trai một gái, chết thằng lớn trong Nam đi bộ đội, tao tìm không ra xác nó, còn hai đứa đã có gia đình rồi.
    - Tụi nó làm gì ?
    - Một thằng đi bộ đội ở trên tỉnh, đứa con gái lấy chồng ở làng Thành Lập con trai thằng Khải đấy, Mày nhớ thằng Khải con ông Bạ Tỵ không ? Tao tất cả sáu cháu rồi. Mày thì sao ?
    - Từ ngày bỏ làng ra đi tôi vẫn không có gì cả... Chạy dài như Sao thấy đó.
    - Nhưng mày sưóng hơn tao. Mày đi đủ nơi, biết được mọi thứ, còn tao cứ ở cái quê nghèo này hoài...!
    - Số trời mà.
    Nói xong tôi dúi vào tay Sao 20 chục đô la. Mặt Sao buồn hẳn lại lẩm bẩm như khóc.
    - Tao hỏi thăm mày không phải là xin tiền đâu ! Tao mừng được gặp lại bạn cũ thế thôi. Tao sống nghèo ở đất này quen rồi...! Sao mày lại đưa tiền cho tao, mặc dầu tao nghèo.
    Tôi bùi ngùi.
    - Tôi tặng Sao đó mà...! Hơn nữa tôi bận lắm không nhớ ai để đi thăm, gặp nhau ngay trên cánh đồng quê này là may rồi...! Cố gắng sống nghe Sao... Ngày mai tôi đi rồi...
    Sao luồn 20 đô la vào túi aó, sau lời cám ơn rồi trố mắt nhìn tôi.
    - Mày đi bao giờ mày lại về ? Chắc khi mày về làng lần nữa thì tao đã chết rồi.! Đám bạn của mày và tao đã chết gần hết rồi...!
    Tôi cúi đầu giấu nỗi buồn, nói với Sao.
    - Thôi chào Sao nghe...! Mong rằng mình sẽ gặp lại.
    - Mày đi bằng an nghe Trống...
    Tôi cúi đầu bước đi thật nhanh như chạy trốn những kỷ niệm chợt bùng lên trong trí nhớ mà ở đó có Sao, có Mến, có Khải...có những người bạn trẻ vui đùa tắm ao tắm sông... và có cả ông bà nội ngoại ngày xưa...!
    Quê tôi đó...! Quê tôi nghèo nàn và oan nghiệt như một vết đâm lút cán vào hồn tôi với những gì tôi tìm thấy và nghe được...
    Những con cò mang xác người thực sự đã không còn hoà bình trên đồng nội, mà thực ra họ đang chết dần mòn trên chính mảnh đất yêu thương cằn cỗi từ thủa nào cha ông để lại, nay họ cố giữ nhưng không biết
    bao giờ sẽ phải buông tay vì kiệt sức ...!

    Ôi tự do và hạnh phúc...!

    Tôi vẫn thế bưóc đi hồn bỏ lại
    Lệ không dâng sao mắt lại chợt cay
    Không thổn thức sao trong lòng sóng động
    Đông không về sao có gió heo may...!

    Viết để nhớ lại một ngày về làng Thành Lập

    San Jose Feb. 24, 2007.
    Chinh Nguyên
     
  6. administrator

    administrator Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    Thg 3 14, 2011
    Bài viết:
    211
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
    Giới tính:
    Nam
    Sài Gòn ơi

    SÀI GÒN ƠI


    [​IMG]

    Sáng 24 tháng chín, Suriya, người hướng dẫn viên chở tôi và Mỹ Thanh ra phi trường Bangkok bằng xe nhà của anh ta đề trở về Việt Nam.
    Trở về Việt Nam và đi Mỹ là hai động từ tôi thường dùng để nhắc nhở tôi quê hương nơi tôi đã sinh ra và một ngày nào đó tôi sẽ trở về. Đi Mỹ là bỏ lại nơi chôn nhau cắt rốn sau lưng để ra đi tỵ nạn cộng sản nơi tạm dung. Hai chữ "trở về" này đã nhiều lần réo gọi quay quắt như những giấc mơ tiên chập chờn thoáng nhớ dấu yêu mộng ước một thời.
    Tôi đang miên man hồi tưởng những con đường cũ tôi sẽ đi qua trên đất mẹ sau vài giờ bay, bỗng Suriya hỏi tôi.
    - Ông Nguyên. ông bà có mang theo visa vào Việt Nam không ?
    - Có ! Vợ tôi cầm. Tôi ngạc nhiên nhìn Suriya trả lời và hỏi lại anh ta.
    - Nhưng sao anh lại hỏi tôi chuyện này ?
    Suriya quay nhanh nhìn tôi phân bua.
    - Cách đây mấy tháng có hai anh em ông Phong về Việt Nam sau khi du lịch Thái Lan một tuần, như vợ chồng ông bây giờ, nhưng khi ra phi trường Bangkok về Việt Nam thì bị từ chối.
    Mỹ Thanh trố mắt nhìn tôi như thầm nói gì, và tôi hiểu rằng nàng đã tỏ ý lo ngại cho tôi vì những bài viết chống đối CS trên mấy web site tại Mỹ của tôi. Nàng quay qua Suriya:
    - Tại sao vậy ? Chắc họ bị nghi ngờ hoạt động chống chính phủ hoặc gán cho ông Phong ba chữ CIA chứ gì...! Người Công Sản Việt Nam cứ muốn bắt ai và cấm ai về nuớc là chụp cho họ cái nón cối CIA Mỹ, thật dễ dàng quá ...!
    Suriya lắc đầu.
    - Không, anh em ông Phong chẳng hoạt động gì cả, họ chỉ là người Việt Nam thuần túy muốn về thăm quê hương sau những năm sống ở xứ người. Tuy nhiên, họ đã lầm lẫn mang tờ Visa copy trong hồ sơ chứ không phải bản chính mà tòa đại sứ Cộng Sản Việt Nam bên Mỹ đã cấp cho họ.
    - Tại sao hai ông này lại dùng copy visa ? Lạ nhỉ..!
    - Theo ông Phong, thì vợ ông ta copy muốn giữ lại bản phụ, và đưa bản chính cho ông ta, nhưng vì lầm lẫn sao đó, bà ta lại bỏ bản phụ vào xấp hồ sơ cho ông ta mang đi. Khi qua Thái Ông Phong mới biết.
    - Ồ..! Thì ra là thế...! làm sao họ vào Việt Nam được ? Trong khi chính phủ Việt Nam Cộng Sản đang muốn kiểm soát tất cả những Việt Kiều ra vào Việt Nam để ngăn ngừa đủ mọi thứ chuyện, trong khi họ vẫn hồ hởi kêu gọi Việt kiều trở về giúp nước để kiếm đô la.
    Suriya thở dài kể :
    - Nhưng dù sao họ cũng là người Việt Nam đâu phải sắc dân nào khác..! Chỉ cần gọi điện về tào Đại Sứ Việt Nam bên Mỹ để xin xác nhận, chỉ vài phút thôi thế mà nhân viên hữu trách của VN Airline làm khó dễ anh em ông Phong. Tôi đã tự nguyện giúp họ bằng cách chở họ quay lại phòng ngủ, và đưa họ tới tòa đại sứ Việt Nam tại Thái Lan để anh em ông Phong xin visa khác, hoặc xin dấu thị thực trên tờ visa copy của ông Phong. Nhưng nhân viên ở Tòa Đại sứ Việt Nam cứ chỉ vòng vo chẳng ai chịu trách nhiệm về việc này, trong khi họ rất nhàn rỗi ngồi gác chân lên bàn nói chuyện như không có gì sẩy ra.
    - Họ chỉ anh và ông Phong đi vòng vo hét chỗ này tới chỗ khác để xin thị thực chữ ký phải không?
    - Sao ông biết ? Suriya trố mắt ngạc nhiên nhìn tôi hỏi.
    Tôi mỉm cười.
    - Họ đã học tập tánh "vô tư" từ trong bụng mẹ rồi! Họ còn có thể chỉ anh và ông Phong đi trở lại chỗ họ vừa chỉ mà không có kết quả cả trăm lần họ vẫn chỉ. Ai chết mặc ai tiền họ vơ vào túi cũng "vô tư" và không trách nhiệm luôn. Tôi gọi họ là chính sách "vô tư dầu tiên" để bóc lột dân.
    Tại anh và Ông Phong không đua tiền ra cho họ như anh đã đưa 100 bat
    cho nhân viên cảnh sát Thái tuần trước, nên họ chỉ anh đi vòng vòng...!
    - Cuối cùng ra sao ? Mỹ Thanh hỏi.
    Suriya cười phá lên, trong khi anh ta nhìn tôi và Mỹ Thanh:
    - Ông Phong đã đã nghe tôi bỏ 100 đô la vào giữa tờ giấy visa copy để thầm hối lộ họ đấy chứ ! Việc này tôi rành lắm đó nghe, nhưng vẫn không có gì thay đổi.
    Tôi nhìn Mỹ Thanh.
    - Thật khó hiểu...! Sao Người Cộng Sản VN lại chê tiền..! lần đầu tôi nghe anh nói Lạ nhỉ...!
    - Chắc có anh Suriya bên cạnh nên họ ngại. Vả lại đây là đất Thái chứ phải đất Việt đâu mà ăn bẩn trước mặt thiên hạ.
    - Thì Cop Thái học Cop Việt cầm 100 bat của anh Suriya mấy hôm trước trên sa lộ đi tới thăm tượng phật vẽ bằng tia sáng lazer và khẩn vàng trên những nét vẽ ở một góc núi mà họ bạt bằng đi tạo thành thắng cảnh thì sao...! Cop Thái cũng cầm tiền hối lộ trước mặt người du lịch nước ngoài vậy !
    - Anh và tôi lúc đó đâu có nói câu nào đâu hà..! Cop Thái cứ tưởng chúng ta là dân Thái. Trong khi nhân viên tòa Đại Sứ Việt Nam đã tiếp chuyện với anh Suriya, họ biết anh là người Thái.
    - Vậy là anh em ông Phong phải trở về Mỹ phải không anh Suriya? Tôi hỏi.
    - Không, anh em ông Phong không về Mỹ, mà ở lại Bangkok thêm một tuần chờ người nhà gởi bản chính visa qua. Hai anh em ông ta nói với tôi: "Những thằng ngố không muốn chúng tôi tiêu tiều Mỹ trong Việt Nam để chúng làm giầu, thì chúng tôi tiêu ở Thái Lan có sao đâu! Chúng làm lãnh đạo của chúng mất một mỗi lợi nhỏ..." Tôi nghĩ họ nói đúng, Việt Nam và Thái Lan đều đang cần đô la của Mỹ...!
    Ông bà cầm Visa bản chính là chắc sẽ vào Việt Nam rồi khỏi lo.

    *****************
    Chúng tôi đứng xếp hàng trước quầy vé Việt Nam Air Line, chợt có người kéo tay tôi hỏi:
    - Xin lỗi. Tôi là Liên. Ông bà mang bao nhiêu ký lô ?
    Tôi ngạc nhiên nhìn bà Liên xếp hàng phía sau:
    - Tôi cũng chẳng biết bao nhiêu với hai cái va-li nhỏ này, vì tất cả đều do Mỹ Thanh vợ tôi làm cả, tôi chỉ biết kéo đi mà thôi. Tôi hỏi Mỹ Thanh.
    - Em dồn hai va-li này được bao nhiêu ký ? Chị Liên phía sau hỏi anh.
    Mỹ Thanh quay lại :
    - Em đã cân hai va-li đưọc 40 chục ký, vì mỗi nười mang được có 20 ký nếu từ Thai Lan về Việt Nam, trong khi ở Mỹ về Việt Nam thì mỗi người mang được 70 LBS.
    Bỗng một chị khoảng trên 30 có hai em nhỏ nói xen vào:
    - Không sao đâu, nếu hơn một chút chị cứ đưa vài đô cho họ là xong kể như tiền cước hàng hóa. Thủ tục đầu tiên là chắc ăn hơn cả..! Họ sẽ lo cho mình đủ thứ..!
    - Tôi tên Nguyên. Xin lỗi chị. Sao chị biết chuyện này ?
    Hai tay kéo hai đứa con để chúng khỏi chạy ra khỏi hàng, và chị đã trả lới tôi sau nụ cười bao hàm đầy ý nghĩa:
    - Tôi tên Cúc. Tôi đi hoài nên có để ý nhìn để biết những gì họ đã làm.
    - Sao hai đứa nhỏ của chị nói tiếng anh rành quá vậy? Chúng sanh tại Mỹ ?
    - Phải? Chồng tôi làm việc cho một công ty ngoại quốc ở Việt Nam, nên tôi đi Việt Nam và về Mỹ như đi chợ.
    - Ồ hèn nào chị hiểu đường đi nước bước của họ! Khi về tới Việt Nam thì nhân viên trạm kiểm soát nhập nội họ làm sao? Tôi tò mò.
    Sau khi cúi đầu dặn hai con không được chạy tung tăng kẻo bị lạc, chị quay lại nhìn tôi và mở nụ cười dí dỏm:
    - Thì ông cứ làm tủ tục đầu tiên như tôi vừa nói là chẳng ai hỏi gì ông cả..! Còn có người hăng hái giúp ông sách hàng lý nữa...!
    - Thì ra đồng tiền bao giờ cũng là sức mạnh vô song...! Thế mới biết xã hội chủ nghĩa của Cộng Sản Việt Nam tiến mạnh trên con đường mưu lược kiếm tiền bằng nghị quyết 36 để trở thành tư bản đỏ. Cám ơn chị đã cho những chi tiết hay.
    - Không có gì đâu ông. Tôi biết gì nói nấy mà thôi.
    Sau khi tôi đã bỏ hành lý lên cân, đi qua khu khám sét để vào phòng đợi lên máy bay cổng 36. Tôi đưa mắt một vòng tìm chỗ ngồi, đồng thời tôi chợt nhìn thấy người bạn cùng chuyến bay từ Mỹ tới Thái Lan, anh ta cũng nhận ra tôi. Anh ta vẫy tôi và chỉ vào hai ghế trống bên cạnh, bằng giọng tàu chợ lớn nói tiếng Việt:
    - Tôi tưởng nị về Việt Nam dzồi chớ?
    Tôi tới gần anh.
    - Ngộ tưởng nị về Việt Nam dzồi ! Sao Thái Lan có gì vui không ?
    - Chẳng có gì cả ! đzánh bạc không có, phong cảnh chỉ có mấy cái chùa cổ, nhưng gái điếm nhiều quá..! Cái mục này thì giống như xã hội chủ nghĩa Việt Nam ta.
    - Ủa Anh Trương đã về Việt Nam mấy lần rồi? Tôi hỏi.
    - Ngộ về mỗi năm một lần, nhớ con và Chợ lớn quá mà...! Không về không được.!
    - Tiền đâu anh về như đi chợ vậy ?
    - Thì tiền già đó, mỗi tháng chính phủ Mỹ cấp mấy trăm. Ăn, ở nhờ con trai không mất tiền. Hai vợ chồng dành dụm lấy tiền về Việt Nam chơi.
    - Anh ở Việt Nam mỗi lần mấy tháng ?
    - Ba tháng, nhưng có lần con gái tôi bị bệnh tôi phải ở lại 5 tháng, vì ở quá sáu tháng chính phủ Mỹ sẽ cúp phụ cấp tiền gìa.
    - Nhưng chính phủ Việt Nam chỉ cho ở ba tháng thôi, sao anh ở 5 tháng đuợc.
    - Thì tiền anh bỏ ra là yên ngay, có gì khó khăn đâu.
    - Làm sao anh biết ai ăn hối lộ để chi tiền? Chính phủ Việt Nam cấm chuyện này mà ! Coi chừng bị bắt vì chuyện hối lộ thì không ổn.
    Anh Trương lắc đầu.
    - Ôi ... Cấm cho có chuyện nói với dân là chính phủ thanh liêm, nhưng cấm phía trước cầm tiền phía sau, ai mà biết..! Ăn hối lộ thì cứ ăn, có ai bắt bớ ai đâu... Nếu có bắt thì cũng là kẻ không có thày đỡ đầu hoặc cầm hết không biếu xếp mới bị mà thôi. Nếu có người đỡ đầu sẽ chỉ bị cách chức chỗ này rồi thuyên chuyển đi chỗ khác làm chức vụ lớn hơn. Mình chỉ sợ họ không ăn tiền mình đưa... chứ nếu họ ăn tiền mình đưa thì cái gì cũng qua hết ... Nếu họ cầm tiền mình đưa, con voi cũng lọt qua lỗ kim anh biết không ? Ở Việt Nam làm lớn ăn lớn, làm nhỏ ăn nhỏ nếu cấm tham nhũng ai làm việc cho đảng đây..! Nhưng xin ở lại quá ba tháng cũng phải đóng tiền lệ phí. Nếu anh không muốn họ hỏi lôi thôi thì gói vào giữa tờ giấy xin ra hạn thêm vài đồng. Thế thôi...!
    - Tôi nghĩ chính phủ Cộng Sản đang điều tra những vụ cướp đất đai của dân và hối lộ đó mà..!
    - Ai mà tin cho nổi..! Vụ cướp đất của dân đều do mấy ông lón cầm đầu..! Chẳng có ai dám tra xét vụ này tới nơi tới chốn đâu...! Còn hối lộ dăm ba đồng ai mà để ý làm gì...! Người ta nghĩ chuyện lớn không à!
    - Sao anh biết rành qua vậy.?
    - Tôi sống với Cộng Sản nhiều năm rồi...! Tôi cũng mất đất như mọi người đã mất đất hôm nay. Cứ thấy chỗ đất nào ngon có thể thương mại được và có giá trị là họ dùng danh nghĩa đảng và công ích chung cho dân để giải tỏa, sau đó mấy ông lớn âm thầm chia lô cho nhau và dàn đựng xây cất một công sự nhỏ như trường học, trạm y tế để qua mặt dân, thế là đất của dân đã trở thành đất của họ, và họ đem bán kiếm tiền. Những vụ kiếm tiền kiểu này đã trở thành chính sách của các cán bộ tỉnh ủy kiêm giám đốc sở nhà đất và họ dễ thành tư bản đỏ. Dân kiện tới chết chưa chắc đã đòi lại được...!
    Anh Quang ngồi bên cạnh nghe tôi, nghe anh Trường nói chuyện về quan quyền cướp đất của dân, anh ta xen vào.
    - Bây giờ khác trước rồi, không có ai giám làm chuyện ép dân cướp đất này nữa đâu. Chính phủ Cộng Sản còn cho Việt kiều mua đất đứng tên, hai anh không biết sao ?
    - Tôi biết chứ. Anh Trương trả lời. Nhưng anh có biết rằng có những điều kiện gì không ? Này nhé : Thứ nhất anh phải là người có công với Đảng. Mà có công với đảng cũng bị đối sử tệ như thường, phế binh của họ còn đi ăn mày kia huống chi Việt kiều có công với đảng...! Thứ nhì: Anh phải là người làm ăn thuơng mại với Việt Nam và phải ở VN mỗi năm trên 6 tháng. Nếu anh làm ăn với tình trạng lớn quốc tế thì họ có thể nương tay, nhưng nếu anh làm ăn nhỏ lén lút mà họ biết thì anh chỉ có cách ôm quần chạy về Mỹ, vì họ biết anh không có ai chống lưng. Thứ ba: Anh phải về Việt Nam và hồi tịch. Anh có thể làm chuyện này không? Ngoài ba điều này anh đừng hòng mua đất đứng tên. Nếu anh đã mua đất làm nhà để hưởng già trong tương lai là anh sẽ bị đám con buôn a tùng với nhóm Giám đốc tài nguyên CS lừa và một ngày nào đó anh sẽ bỏ của chạy tay không.
    - Tôi đã mua đất và xây nhà bằng tên của vợ chồng tôi, đâu có ai hỏi han gì đâu..! Anh Quang nói.
    Anh Trương nhìn thoáng tôi và anh Quang, và sau một giây suy nghĩ, anh Trương hỏi anh Quang.
    - Vậy anh làm sao có thể giữ đất xây nhà ?
    - Vợ chồng tôi thay nhau mỗi người ở sáu tháng bên Việt Nam cho hợp pháp.
    - Ồ..! Nếu có ngày vợ chồng anh mệt mỏi không đi đựơc nữa, chắc vợ chồng anh phải về Việt Nam ở luôn để giữ nhà. Vì nếu hai vợ chồng anh quá sáu tháng không về là bị Đảng lấy ngay quy định theo luật. Như vậy đâu có phải là quyền tư hữu bất khả xâm phạm của anh, mà anh bị họ lươn lẹo gạt anh thì đúng hơn. Nhưng nếu anh bỏ Mỹ thì lại mất cả quyền phúc lợi và bảo vệ mà anh đang có..!
    Với giọng nói dí dỏm anh Trương tiếp: Chính phủ dẫn đạo, người dân
    làm chủ và Đảng nhà nước quản lý là như vậy đó, anh hiểu không?
    Tôi nhìn anh Phong và anh Trương, rồi tự phân bua:
    - Tôi thì không mất đất vì Đảng, mà mất vì người em vợ của tôi.
    - Anh để cho em vợ anh đứng tên phải không ?
    - Phải ? Tôi gật đầu.
    - Vậy là anh mất đất là cái chắc. Đất lên giá như hỏa tiễn bay cung trăng. Ai mà không tham...!
    - Thà rằng anh em mình cướp đoạt, nhưng anh em mình còn có thể hưởng, còn hơn Đảng cướp đoạt. Anh Trương xen vào.
    - Tới giờ lên máy bay rồi, mấy ông không đi xếp hàng để về Việt Nam? Cứ ngồi đó mà nói chuyện đất đai như chuyện lên cung trăng vậy..! Tôi thì nhất định chỉ về chơi nếu thấy được ở lâu, bằng không thì đi du lịch chỗ khác, chẳng ai chèn ép mình được. Miễn là không làm chính trị chính em...!

    *****************

    Chiếc Việt Nam Air Bus thuê của Hồng Không vừa đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, dừng lại trên bãi đậu và cửa đã mở ra để cho hành khách bước xưống cầu thang và chạy nhanh vào xe bus không có cửa an toàn khi lăn bánh đã đậu sẵn bên cạnh.
    Sài Gòn bây giờ mùa mưa nên ai cũng ríu rít chen lấn nhau đầy trên xe và mặc cho tài xế đưa họ về trạm kiểm soát nhập nội.
    Tôi đi sau Mỹ Thanh để ý hành động của nàng, trong khi nàng cầm hai sổ pasport mở ra và kẹp vào giữa 5 đô la.
    Tôi ghé tai nàng nói nhỏ:
    - Em làm gì vậy?
    - Chị Cúc nói cho họ 5 đô là mọi chuyện êm suôi, nếu không họ sẽ hỏi những chuyện không đâu. Em không mốn họ lôi thôi với anh. Thanh Thì thào bên tai tôi.
    - Chị Cúc có bỏ tiền như em không?
    - Không?
    - Thế tại sao em lại làm theo ý chị ta ?
    - Vì chị ta đã ra vào Việt Nam như đi chợ, họ đều biết mặt chị ta nên không hỏi han gì cả. Lúc đầu chị ta cũng ra tiền như em bây giờ. Thôi anh nghe em xếp hàng đi đừng ấu ó gì nữa...!
    Tôi đứng sau Mỹ Thanh và nhìn vào bảng tên người kiểm soát nhập nội họ Tăng tên Tống. Tôi thấy anh Tống mở Pasport của hai chúng tôi và khéo léo luồn 5 đô xuống hộc bàn, sau đó mỉm cười hỏi với giọng Bắc đặc:
    - Anh chị về Việt Nam ở lâu không ?
    - Tôi và ông xã về thăm mẹ anh ấy, chỉ độ vài tuần rồi đi, vì ở Mỹ tụi tôi cũng bận lắm.
    - Thôi anh chị về VN vui vẻ nhé. Anh chị bước qua lấy hành lý đi nhớ là phải đi qua chỗ khâu hải quan đó nghe.
    Tôi chợt nghe Tống nhắc :"Nhớ phải đi qua chỗ khâu hải quan đó nghe..", tôi đã rất nhanh liếc qua khôn mặt lạnh như đồng của anh ta, trong khi tay đang mở số pasport của người kế tiếp sau tôi . Tôi chợt nghĩ: ồ thì ra hắn nhắc thầm Mỹ Thanh nên có tiền lót đường ở chỗ khâu hải quan trước khi bước ra khỏi cửa kiểm soát.
    Vừa tới chỗ lấy hành lý và trong khi tôi đang đưa mắt nhìn vào đống hành lý vất lộn xộn, bỗng có tiếng hỏi cũng lại giọng Bắc:
    - Thưa anh, anh lấy hành lý phải không ạ?
    Tôi nhìn anh ta gật đầu:
    - Tôi có hai va-li.
    - Dạ, em biết nên bỏ riếng a đây rồi.
    Tôi nhìn theo tay chỉ của người nhân viên trong ban hành lý, và nhận ra đó chính là hai va-li của tôi. Môt thoáng ý nghĩ trong đầu tôi chợt hiện ra: Tụi này làm ăn có giây chuyền nhanh thật! Tại sao hắn lại biết đó là hành lý của mình? Mỹ Thanh đã bước tới sau lưng và nói:
    - Đúng rồi, hai cái va-li đó là của chúng tôi.
    - Để em bỏ lên xe cho anh chị nhé.
    Thế là anh ta kéo chiếc xe để gần đó tự bao giờ, bỏ hai chiếc va-li của chúng tôi lên rồi đẩy qua khâu quan thuế và tự tay anh ta bỏ vào máy kiểm soát, trong khi Mỹ Thanh lại tự tay dúi tặng anh ta 5 đô.
    Đứng sau lưng Mỹ Thanh trước bàn kiểm soát thuế vụ, tôi thấy ngưới nhân viên thuế vụ chẳng khám và hỏi gì cả, và cho vợ chông tôi bước qua cửa nhỏ cạnh bàn anh ta một cách mau mắn, tuy nhiên khi tôi nhận chiếc ba-lô vừa ló ra khỏi của máy kiểm soát và đeo lên vai, chợt có tiếng của người kiểm soát nói với tôi:
    - Anh có mang theo PC Laptop phải không?
    Tôi nhìn anh ta gật đầu:
    - Phải?
    - Có khai báo gì không? Giấy tờ khai báo đâu cho tôi xem lại nào.
    Với giọng nói lạnh lùng và sắc như dọa nạt, anh ta vừa đứng dậy đi ra khỏi chỗ làm việc vừa bước tới phía tôi.
    - Tôi có khai báo đấy chứ.
    Tôi vừa nhìn anh ta vừa trả lời, và cúi xuống tìm giấy tờ khai báo quan thuế về chiếc máy Laptop, bỗng có tiếng từ bàn làm việc của người nhân viên tra xét giấy tờ quan thuế nói vọng lại làm tôi thoải mái thở phào nhẹ nhõm:
    - Để anh chị ta đi đi. Anh chị ta đã khai rồi.
    Người nhân viên tên Hạnh vừa mốn khám xét giấy tờ khai báo của tôi tự nhiên dịu giọng.
    - Thôi anh lấy hành lý mau lên, rồi đi để tôi còn khám xét người khác.
    Tôi vội sách chiếc ba-lô và đeo lên vai, sau đó hai tay kéo hai chiếc va-li đi mau ra cửa như chạy trốn người đang theo dõi mình và đưa mắt tìm Huyền, người em vợ đã cho xe ra đón chúng tôi ở ngoài phòng quan thuế .
    Trong khi ngồi trên xe về nhà Huyền, tôi nhìn Mỹ Thanh:
    - Cái anh chàng khám xét giấy tờ hôm nay sao dễ mến nhỉ? hắn cho chúng mình đi qua mau chóng rồi lại ngăn thằng đểu kia nữa chứ.
    Mỹ Thanh nhìn tôi mỉm cười, sau đó nàng quay qua Huyền phân bua:
    - Chị biết thế nào cái Laptop của anh Nguyên cũng bị bọn Cộng Sản nhòm ngó. Nên đi qua mỗi chỗ là chị sỉa 5 đô la.
    Nàng nhìn lại tôi gằn giọng.
    - Tất cả tổng cộng 20 chục đô la đó, anh tưởng chúng vào chùa tu chắc.
    - Trời...! Em cho thằng khai xét quan thuế 10 đô la lận?
    - Nếu không làm sao anh thoát khỏi thằng Hạnh khám anh! Mà khám anh là lôi thôi, vì tính ngang bưóng của anh có chịu thua ai đâu...!
    - Thì mình có giấy tờ mà.
    - Đành rằng có giấy tờ đàng hoàng nhưng khi nó bắt anh bới tung tất cả ra, em chắc anh sẽ cãi lộn cho mà coi.
    - Thì anh mất 20 đô la có gì đâu. Huyền xen vào.
    - Nhưng tụi này kỳ quá đi. Tôi gằn giọng.
    - Ai bảo Việt Kiều các anh mang áo gấm về Việt Nam làm chi. Cộng Sản chúng biết Việt kiều còn vướng bận thân nhân và không thể quên quê hương nên chúng đã mạnh dạn nắm lấy thân nhân của Việt Kiều như một cái bùa hái tiền. Chúng giăng lưới hứng tiền đô của người Việt tung về như tung qua cửa sổ mua vui, sau đó chúng còn được quyền hạch sách bắt bớ tùy hứng. Ai dại thì cứ về để tức ứa máu rồi ngậm câm không người nào dám nói khi về Mỹ.
    - Ây, anh ấy là như vậy! Khi ở Mỹ thì nhất định về thăm quê hương, nhưng sau khi bước xuống phi trường nhìn thấy cảnh chẳng đặng đừng lại chửi toáng lên, rồi đổi ý muốn quay lại Mỹ..! Mỹ Thanh hùa theo Huyền.
    - Thôi, tôi chịu thua chị em bà. Làm ơn nhờ anh tài xế chở về nhà cho mau một chút tôi mệt chuyện này quá rồi.
    Huyền nhìn hai vợ chồng tôi mỉm cười.
    - Mệt hay không mệt thì anh cũng đã tự cho đầu vào chòng rồi. Anh nên ăn nói giữ mồm gìữ miệng đó nghe. Tụi nó đang ra công tìm những người chống đối để sửa soạn cho ông Bush qua tháng 11 này đó nghe. Anh mà hó hé tụi nó chộp không ai dám cản đâu đó.
    - O.K. tôi sẽ nhắm mắt như không thấy.

    **********************************
    Sài Gòn chợt mưa khi chiếc xe Ford Escape đang chạy trên đường 3 tháng 2 để vào Chợ Lớn. Cơn mưa không lớn lắm nhưng đã làm nước từ cống rãnh dâng lên mặt đường khi xe chạy trên quận 5, màu nước đen và hôi thúi luồn vào xe đã làm tôi muốn nôn. Tôi bịt mũi hỏi Huyền:
    - Thành phố Sài Gòn sao lại vậy ? Mới mưa chưa đầy 10 phút mà nước ở đâu tràn vào với mùi thối quá sức tưởng tưởng hả em?
    Huyền hìn tôi như không có gì lạ sảy ra:
    - Thì nước ở mấy con sông chết dâng lên qua cống rồi tràn lên mặt đường phố. Dân Thành phố HCM quen sống như vậy rồi! Chảng chết chóc ai...!
    - Nhưng hôi thúi quá ai mà chịu nổi !
    - Không chịu được cũng phải chịu. Ai bảo sống dưới chế độ Cộng Sản, mà đã sống dưới chế độ Cộng Sản thì ai cũng hiểu được rằng ít nói và lo cho mình là tốt nhất. Việc nước hôi thúi tràn vào thành phố mỗi trận mưa coi như vô tư.
    Xe chạy lên lề đường để chúng tôi chạy vào nhà trong khi trời đang mưa, nhưng trước khi mở cửa xe anh tài xế đã mở vòi nước bên hông nhà và hứng nước vào sô hắt lên hai bên cửa xe cho bớt mùi hôi, và cũng như để rửa xe tạm thời trong lúc cần.
    Khi bước xuống xe tôi cưòi nói với anh tài:
    - Bộ mỗi khi mưa là anh tạt nước vào như vậy sao?
    - Nếu không làm vậy cho bớt mùi thì sau khi cho xe vào nhà chẳng ai ngửi được cái mùi này đâu !
    Tôi bước vào nhà nhìn ra ngoài đuờng phố nước đen đã ngập tới gần đầu gối, trong khi chiếc xe đang lùi dần vào chỗ đậu xe bên phòng khách mang theo mùi hôi nồng nặc buồn nôn. Tôi vội mang hành lý lên lầu ba, đóng chặt cửa lại sau đó quay qua Mỹ Thanh:
    - Anh không ngờ Sài Gòn bây giờ bẩn thủi như vậy?
    - Sẽ còn có nhiều điều không ngờ mà anh sẽ gặp nếu anh ở Việt Nam mấy tháng như anh đã dự định. Nếu anh đổi ý thì ở mấy tuần rồi về Mỹ có sao đâu.
    - Không. Anh phải ở lại Việt Nam đúng như anh muốn để nhìn thấy sự thực người Việt quốc nội sống ra sao trong chế độ Cộng Sản lồng trong bàn tay sắt tư bản đỏ, một giai cấp mà CS khai sinh ra sau khi cưỡng chiếm được Việt Nam do Mỹ tặng họ.
    - Tùy anh..!
    Sáng sớm tôi mở cửa sau khi nhìn thấy dòng nước đen quánh đã rút mất và để lại một lớp mỏng bùn đen nhầy nhụa trên lối đi, xe đã chạy tấp lập náo động tiếng xe máy nổ lẫn với còi xe. Bụi đen trên đường xe chạy đã khô và bay lên tạt vào mặt làm tôi lùi lại khép cửa, nhưng cũng cố nhìn qua bên kia đường để đích thực nhận ra những hàng quán ăn sáng trên hè phố. Những người chủ quán rất bình thản nấu nướng trên những bếp than đặt trong chiếc xe bên góc nhà hàng. Khách vẫn người ra kẻ vào ăn uống thoải mái và dường như họ cũng không cần để ý tới cái mùi hôi thúi đang sông lên trong cơn nắng sớm, và bụi tung bay mang theo những mầm mống bệnh tật vào những đĩa, chén thức ăn mà họ đang gắp vào miệng nhai một cách thoải mái. Tôi quay lại hỏi Huyền:
    - Tại sao họ ngồi ăn thoải mái trong khi bụi đen từ cống rãnh đang bay vào chén cơm tấm hoặc tô phở của họ vậy nà?
    - Thì tại anh sống ở Mỹ, anh hiểu vệ sinh căn bản phải có, nhưng ở đây dẫu có hiểu cũng không thể giữ được. Dạ dày đói ăn trước chết sau anh hiểu triết lý này mà...! Kéo cày rã thân ra mà chỉ đủ một tô phở thôi đó...!
    - Thật vậy sao?
    - Thì anh tính coi, này nhé 100 đô la ăn một triệu sáu. Tốt nghiệp đại học lương tốt là một triệu rưỡi một tháng, Vậy những người không có học thì lương bao nhiêu? Kiếm 50 ngàn một ngày không ra. Mà 50 ngàn thì chỉ khoảng 40 xu Mỹ mà thôi.
    - Ồ sao tôi không thấy ăn mày nhiều như hồi tôi về lần trước 1980?
    - Họ bắt ăn mày bỏ vào chỗ khác rồi. Họ nói rằng ăn mày làm mất mỹ quan thành phố.
    - Nhưng tệ nạn ăn mày là tại chính sách của họ mà?
    - Nói như anh thì đã không phải là Cộng Sản! Tất cả những cái xấu của xã hội họ đều nói là kết quả của Mỹ Ngụy để lại. Cho báo chí chửi Mỹ thả giàn nhưng vẫn chạy theo Mỹ để xin ăn.
    - Họ muốn nói sao thì nói! Nhưng chẳng lẽ những cô gái bia ôm, làm điếm đợi khách trên đường Lê Duẩn, Ba Tháng Hai mà tối qua tài anh xế chỉ cho chị và em trong khi anh ta chở em và chị đi thăm người bạn của chị thì cặn bã của Mỹ Ngụy sao? Những cô gái này xem qua chỉ chừng trên dưới 25, 18 tuổi. Trong khi chiến tranh đã tàn trên 30 năm rồi Mỹ Ngụy đâu còn nữa...!
    Lại còn vụ lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan để có dịp bỏ nước tì do ai ?
    Mỹ Thanh kéo tôi ngồi vào sa-lông và đặt trước mặt tôi ly trà nóng. Nàng đã nói sau khi nhìn Huyền.
    Huyền nhìn vợ chồng tôi:
    - Nói để anh biết thôi mà. Cả nước ai cũng hiểu lời ông Thiệu nói "Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn những gì Cộng Sản làm" trước 75 là đúng, nhưng bây giờ thì trễ rồi. Nghe hay nhìn cũng như nhau...!

    *****************
    Vì sợ bụi đen nên tôi vẫy chiếc taxi chở đi những đường phố mà tôi thích nhìn lại, ngồi trong xe tôi quan sát cách lái xe trên đường của anh tài xế taxi, có lúc tôi thấy anh ta lái xe lấn qua hẳn nửa đường bên kia, và đang đối đầu với một chiếc xe hơi khác, có khi anh ta cúp ngang qua mặt một chiếc xe hàng lớn làm tôi giật mình, cũng có lúc anh ta bất kể ngã tư cứ tự nhiên lái xe qua như không hề nhìn thấy đèn đỏ, đôi khi anh ta đang ở giữa đường cua ngay phải không kể gì những đoàn xe Honda hoặc xe hơi đang chạy bên phải anh ta.
    Hành sử này làm tôi buột miệng hỏi:
    - Này anh tài, anh lái xe lạ quá chừng! Anh không sợ tông hoặc bị phạt hay sao?
    - Sợ tông nhau thôi, chứ không sợ bị phạt?
    - Tại sao?
    - Vì nếu tông thì có tai nạn sảy ra chết người, nhưng ít khi tông lắm. Còn nếu bị công an phạt gì đưa tiền ra là xong.
    - Tiền đâu mà anh đưa hoài vậy?
    - Tôi làm gì có tiền, nhưng lúc bí vẫn phải cắn răng chi thôi.
    - Sao tôi thấy anh không chạy đúng luật giao thông tí nào vậy ?
    - Luật giao thông có chứ, nhưng ai cũng chạy bậy cả, nhưng nếu tôi theo luật giao thông để lái xe, có thể tôi sẽ gặp tai nạn, vì có ai chạy đúng luật đâu, trong khi Công An chỉ biết bắt người coi mặt tìm tiền.
    Tôi nhìn chiếc xe Ford 7 chỗ ngồi, hỏi anh tài:
    - Xe này là của anh?
    Anh tài trố mắt nhìn tôi:
    - Ông nhìn xem tôi có khả năng mua chiếc xe này không? Xe này là của hãng VinaSun, mà ông chủ VinaSun này là một bí thư của đảng. Ông ta mới có tiền mua những chiếc xe này để làm taxi.
    - Ồ..! Sao bí thư có quyền kinh doanh thương mại sao?
    - Ông không biết đó thôi! Mỗi một ông lớn trong đảng đều có một chức phụ hầu kiếm tiền, chức vụ chính là để bao che cho chức vụ phụ. Chẳng hạn như tỉnh ủy đảng sẽ có một chức phụ là giám đốc hằng Vinasun. Sau thời kỳ bao cấp để che mắt dân, nhưng ai mà không biết tiểu sảo của những người lãnh đạo Cộng Sản...!
    Tôi nhìn anh tài xế với đôi mắt nghi nghờ:
    - Ây...! Đó là anh nói, chứ không phải tôi đó nghe. Công an ngầm đầy phố và cũng có thể anh cũng là công an đó nghe. Tôi không nói gì cả..!
    Anh tài xế phì cười, tâm sự:
    - Tôi là đại úy Cộng Sản đấy bác, tôi học ở trường đại học quân sự đàng
    hoàng đấy, nhưng tôi không có lý lịch tốt ba đời nên chẳng cơm cháo gì...!
    Dưới chế độ này phải nhập đảng, phải ba đời chung thành với đảng và
    không Công Giáo thì mới sống được thoải mái. Nhưng có ai đã được sung
    túc đâu. Chúng tôi bị lừa..!
    - Anh bao nhiêu tuổi?
    - Ba mươi tám tuổi.
    - Vậy là sau khi 75 anh mới có 7 tuổi.
    - Đúng gần tám tuổi. Cha tôi là lính ngụy trong khi mẹ tôi ở quê lại theo ông anh của mẹ tôi là Cộng Sản. Năm 75 cha tôi mang gia đình đi xuống tàu, mẹ tôi cố ly gián kéo cha tôi ở lại. Thế là cha tôi phải đi cải tạo chết. Tôi ở nhà lớn lên theo mẹ hy sinh cho đảng, và đã được vào học tại trường quân sự với quân hàm khi bỏ quân đội là đại úy.
    - Tại sao anh bỏ quân đội?
    - Lý lịch cha tôi là lính ngụy ! Và hơn nữa tôi nhìn thấy cảnh bất công và cách đối sử của những người cộng sản với dân, như tham nhũng, lạm quyền cướp đất và làm giầu trên xương máu những kẻ hy sinh cho đảng.
    Tôi chồm tới nhìn thẳng vào mặt anh tài xế:
    - Này anh chửi đảng quá nhiều rồi đó nghe, anh không sợ tôi báo cáo bắt anh sao.
    - Tôi đâu có sợ...! Bác là Việt Kiều, bác báo ai tin bác đây? Tôi nói thực mà, gặp những khách vui như bác là tôi vui miệng nói cho họ nghe, chứ không phải chỉ có bác tôi mới nói.
    - Anh gan thật! Sống dưới chế độ CS mà dũa CS hơi nặng đó nghe.
    - Bác à...! chửi họ hay không chưỉ họ cũng thế thôi. Họ là giống người Việt nhưng vô cảm.
    - Vậy chuyện nhà đất mà dân đang kiện cáo lung tung anh có biết không? Họ giải quyết ra sao?
    Anh tài xế bỗng dưng cặp xe vào lề đường:
    - Bác cho tôi uống nước mía đã. Từ nãy giờ khát muốn chết.
    Xe vừa đậu vào lề đường Cách Mạnh Tháng Tám, anh tài xế mở cửa chạy vội tới xe bán nước mía và mang lại hai túi nhựa nhỏ nước mía. Anh đưa cho tôi một.
    - Bác có dám uống nước mía ép ngoài đường này không ? Tôi mua tặng bác đó.
    Tôi nhìn anh tài xế, miễn cưỡng cầm túi nước mía ép nhưng trong bụng lại sợ vi trùng, tuy nhiên mùi nươc mía ép đã làm tôi nhớ lại thủa học trò tuổi dại, lòng tôi se lại hình dung những người bạn đã ra đi và sực nhớ tới những thằng còn lại.
    - Sợ gì...! Tôi uống cho anh coi. À anh tên gì nhỉ ? nói chuyện với anh trên những con đương phố cũ mà quên hỏi tên anh thật có lỗi.
    - Có gì đâu bác. Tên cháu là Hùng.
    Tôi dưa tay ra trước bắt tay Hùng.
    - Ô chào anh Hùng. Tôi Nguyên.
    Hùng cho xe chạy vào ngõ hẻm để qua đường Nguyễn Thông, băng qua đường Kỳ Đồng để bào Lê Văn Sỹ, trong khi lái xe Hùng hỏi tôi:
    - Bác về Việt Nam tham quan hay là buôn bán?
    - Tôi về chơi thăm bạn bè thôi, tôi không biết buôn bán với mấy ông trời con này! Theo anh Hùng thì sao?
    - Theo cháu về tham quan thì được buôn bán thì không nên.
    - Tại sao?
    - Vì họ thì quỷ quyệt trong khi Việt kiều về nươc thì quá ngây thơ. Việt Kiều tin vào giấy tờ luật pháp, trong khi giấy tờ và luật pháp của Cộng Sản chỉ là trò chơi gian lận của của họ. Họ nói mà không làm...! Chẳng hạn chuyện cướp đất của dân.
    - Họ cướp ra sao?
    - Rất có bài bản và nghệ thuật! Khi dân biết chỉ có đi kiện kêu la, nhưng ai giải quyết cho dân đây, trong khi những người đọc giấy kiện của dân hì đều đã có đất ăn cướp rồi. Dân biẻu tình trên đường Le Duẩn hàng ngày.
    - Biểu tình mà không sợ bị bắt sao?
    - Họ đâu có bắt dan làm chi...! Chính sách của họ là lừa dối. Nên họ chỉ hứa hão cho qua rồi đâu lại vào đấy. Nhưng ai mà tới gần đám biều tình để chụp hình là bị bắt ngay.
    - Họ làm thế nào dể cướp đất của dân cháu biết khống? Tôi tò mò.
    - Chẳng hạn như họ thấy khu nhà hoặc đất của dân ở chỗ nào đó có khả năng lập được khu thương mại hoặc xây nhà cao tầng. Họ phao tin khu đất đó tương lai sẽ bị quy hoạch làm dân hoang mang, trong khi họ cho một nhà thầu tới giả bộ mua đất hoặc nhà một cách lén lút với giá rẻ mạt, cùng thời gian nhà thầu mua nhà đất, những tay tỉnh ủy cỡ lớn của tình đã nhẩy vào gỉa bộ quy hoạch một vài nhà đất để làm cộng sở, sau đó họ đem những nhà đất mà nhà thầu mua được định giá lại và bán cho những nhà thầu ngoại quốc với giá so với vàng cao gấp 100 lần họ mua. Bây giờ dân đi kiện ai...?
    - Ủa họ không họp dân lại để nghe dân hay sao ? Tôi ngạc nhiên hỏi.
    Hùng gật đầu.
    - Có chứ bác. Nhưng đó chỉ là họp cho có lệ và thủ đọan lưu manh. Bác biết
    không..! Khi họ mời dân họp thì 100 hộ họ mời hôm nay mười hộ, ngày
    mai 5 hộ, tuần tới 8, hoặc 9 hộ cho tới hết 100 hộ, nhưng những hộ này
    đều cách xa nhà nhau và không biết nhau để cho dân khó mà bàn nhau và
    đoàn kết được trong một thời gian rất ngắn.
    - Hèn nào mấy ông tướng, mấy ông chính trị đảng ủy, và mấy ông lãnh đạo giàu sụ.. Mỗi ông gởi tiền ở ngoại quốc tới mười mấy tỷ đô la ...! Họ đã
    trở thành tư bản đỏ.
    - Bác ở ngoại quốc nên không biết chuyện quộc nội đó thôi. Mấy ông tư bản
    đỏ này có nhiều mách khoé làm tiền lắm.
    - Sao cháu rành quá vậy ?
    - Cháu đã nói rồi, cháu là đại úy công an nội thành đi bắt buôn lậu thời bao cấp. Nhưng cháu không giàu mà trở thành nghèo rồi bỏ quân đội đi lái taxi lấy tiền nuôi vợ con.
    - Bao cấp là thế nào ? Tôi không hiểu.
    - Bao cấp nói cho có văn hoá một chút, chứ thực chất ra là chia mỗi thằng một khu như loạn xứ quân để cướp của dân trong khu họ cai trị, cho nên cả gạo từ nơi này mang qua nơi khác cũng là buôn lậu, và bị bắt như thường. Cháu là người đi bắt và đã nhìn thấy cái khổ của dân trong thời bao cấp 1975 tới 1985. Có nhièu gia đình bị bắt đến cơm không có mà ăn, nên cháu đã nhiều lần bỏ qua cho dân nhưng cháu bị khiển trách và loại khỏi tổ kiểm soát kinh tế.
    - Vậy sau 1985 thì sao?
    - Sau 1985 là thời ông Nguyễn Văn Linh. Thời kỳ cải cách. Chính thời kỳ cải cách này đã làm cho dân thoải mái đôi chút, nhưng đó cũng là cái trò bịp bợp của Cộng Sản mà thôi...!
    - Tại sao vậy ?
    - Chẳngg lẽ cứ chia nhau để trị dân, rồi tha hồ cướp của dân không còn cái khố. Dân sẽ phẫn uất không cày cấy nữa và Cộng Sản cũng sẽ đói mặc dù họ cướp của dân tiền bạc. Do đó họ phải nghĩ ra cách cải cách để dân làm
    và đóng thuế. Chính những người Cộng Sản đã một thời cướp của dân kia nay lại trở thành những đại gia mở mang kinh tế, lấy tiền cướp của dân ra mở hãng xưởng liên tay với chính phủ cươp sức lao động của dân thêm một lân nữa.
    Tôi ngạc nhiên nhìn Hùng và thán phục sự hiểu biết của anh, tôi bỏ nhỏ để Hùng nói tiếp những gì anh ta nghĩ và hiểu về Cộng Sản Việt Nam.
    - Sự thực bi thảm như thế sao cháu Hùng.
    - Đó là theo sự suy nghĩ của cháu. Bác thử nghĩ và nhìn xem có phải không?
    Ai có đủ khả năng mở ra những khu thương mại lớn hàng tỷ đô la, và những dịch vụ giao thông chuyên chở tại các thành phố như bây giờ ?
    - Vốn nước ngoài, cháu không đọc báo sao? Nhiều nước nhẩy vào Việt Nam làm ăn mà.
    - Đành rằng vốn cũng có từ nước ngoài, nhưng đa số cổ phần của những hãng, xưởng, khu thương mại lớn là có cổ phần của mấy ông lãnh đạo. Tiền này ở đâu vậy? có phải chăng là tiền cướp của dân trong thời kỳ bao cấp, bây giờ mang ra để sài một cách trắng trợn và bắt dân khom lưng làm cho họ như một nô lệ thời pháp thuộc.
    - Cháu có vẻ xúc động nặng đó nghe.
    - Không đâu. Cháu sống với họ từ nhỏ, cháu học cái tính vô cảm của họ từ nhỏ. Cháu chỉ nói để bác hiểu mà thôi.
    Tôi mạnh dạn hỏi Hùng.
    - Này Hùng à, Tôi có câu này hỏi thật cháu, nhưng tôi không dám nói .
    - Bác cứ nói xem sao. Ai cũng chửi Cộng Sản như cháu, bác đừng lo.
    - Thôi cháu cho bác xuống xe, rồi bác sẽ thật lòng hỏi cháu. Bác xuống cổng trại Bùi Phát, sắp tới rồi.
    Khi xe Hùng rẽ vào ngỏ hẻm Bùi Phát dừng lại cho tôi xuống, tôi móc bóp và đưa một số tiền hơn trên máy đã ghi. Tôi nhìn thẳng vào mặt Hùng, với một giọng nghiêm nghị chậm rãi tôi hỏi:
    - Này cháu Hùng, bác cám ơn cháu đã cho bác hiểu được lòng cháu. Dù đó là điều thật hay cháu chỉ nói cho qua chuyện, nhưng bác hỏi cháu: Nếu có sự đổi thay toàn vẹn chế độ này cháu có bằng lòng suôi theo sự thay đổi không?
    Hùng đẩy cửa bước ra khỏi xe, đưa tay bắt chặt tay tôi và cúi đầu, nói rất nhỏ chỉ mình tôi nghe:
    - Cháu bằng lòng quá đi chứ. lầm một lần không thể lầm thêm một lần nữa.
    Tôi bỏ Hùng đứng trố mắt nhìn theo tôi, trong khi tôi bước nhanh và khuất trong khúc rẽ để đi bộ băng qua cây cầu nối tới đường Nguyễn Thông sau nhà thờ Bùi Phát, trong khi lòng tôi chợt nhìn những người dân không có nụ cười và trên khuôn mặt của họ dường như cố dấu một điều gì. Họ chịu đựng hay họ đang tìm cách đứng lên ..!
    Một câu hát dường như của nhạc sĩ Nam Lộc chợt bùng lên trong lòng...!

    Sài Gòn ơi...! Ta mất người như người đã mất ta....


    Chinh Nguyên
     

Chia sẻ trang này

Share