Hai Bà Mẹ Trên Hai Quê Hương . TẠP GHI ( THƯ KHANH ) Cứ mỗi lần mùa Xuân về trên đô thị Seattle, tôi lại nhớ tới HAI BÀ MẸ mà tôi đã gặp ở hai mùa Xuân trước đây: Một bà mẹ ở Việt Nam và một bà mẹ Mỹ ở Seattle. - Trước khi qua Hoa Kỳ, gia đình tôi có mở một tiệm phở ở đường Hương Lộ 14, gần Ngã Bà Quẹo. Tên tiệm là “Phở Bò Cười”. Mọi người đi qua lại nhìn bảng hiệu “Phở Bò Cười” thì họ đều cười bò và nói: “Cái tên gì kỳ cục?”... Nhưng cũng nhờ đặt cái tên ngộ nghĩnh đó mà tiệm phở của tôi khá đông khách. Và trong số khách vào ăn, tôi nhớ nhất là bà Năm ở xóm nghĩa địa. Sau nhiều lần đến tiệm, tôi đã thương bà, nên thường gọi bà là Má Năm. Hàng ngày Má Năm đến tiệm tôi vào lúc 10 giờ sáng. Vào giờ đó, tiệm thường vắng khách nhất. Vào giờ đó, tôi chỉ loanh quanh thái thêm thịt bò tái rồi bỏ vào tủ lạnh, nhặt rau, hành v.v... và... đuổi ruồi. Phải đuổi ruồi, vì không khí Việt Nam vào những ngày gần Tết, chợ búa và nhiều nơi bán đầy xoài, mít, kẹo, mứt... nên nhiều ruồi nhặng vô cùng. Tiệm phở nào cũng ảnh hưởng nên cứ phải đuổi ruồi, tay cứ phải lấy nắm lá mía lau quật luôn luôn. Hàng ngày Má Năm chỉ mặc có mỗi bộ quần áo. Cái áo nâu cũ và cái quần đen đã vá. Tôi chả hiểu má giặt giũ bằng cách nào? Trên tay má luôn luôn có chiếc tô sành màu da lươn. Chiếc tô này được dùng vào nhiều việc như để má Năm đựng tiền khi đi xin ăn, để ghé vô máy nước lấy nước uống v.v. Tay cầm tô, dáng đi khập khiễng bước vào quán. Má nói với tôi: “Thím Hai à - Thím bán cho tui 500 đồng phở không nha”. Mới đầu nghe má Năm mua có 500 đồng phở, khiến tôi hơi bực mình. Vì quán đang vắng, mình mong có người vào ăn, thì khách lại chỉ mua có 500 đồng thôi. Trong khi giá tối thiểu một tô phở cũng phải 2000 đồng. Tôi hơi bực mình, nhưng nhìn má Năm già cả và tôi chợt nhớ là má Năm nghèo lắm. Má phải sống nhờ ở ngoài hiên nhà của một người bà con trong xóm nghĩa địa, ở phía sau nhà tôi đi tới và cùng tổ dân phố với tôi, hàng ngày má đi ăn xin. Nên tôi đã vui vẻ lại ngay, tôi nói: “Mời má ngồi ghế nha. Con làm phở ngay cho má đây”. Má Năm chọn một cái ghế ở phía trái, trong cùng của tiệm. Tôi cũng hiểu má tới tiệm vào giờ này và chọn cái ghế trong góc cùng đó là vì lý do gì rồi. Tôi nghĩ, thân phận một bà mẹ Việt Nam không nơi nương tựa, nước mắt tôi như muốn trào ra. Và tôi nghĩ đất nước mình đâu phải có mình bà Năm ở hoàn cảnh như vậy đâu, mà còn có hàng ngàn hàng vạn bà mẹ già sống cảnh như vậy. Ngày này qua ngày khác, tôi càng thương hại má Năm hơn. Thỉnh thoảng làm phở bán cho má Năm tôi xắt thêm vài lát thịt bò mỏng cho má (vài miếng thịt mỏng xát lưỡi dao). Những ngày gần Tết khiến tôi thấy buồn thêm cho những người già cô đơn. Má Năm có lần hỏi tôi: “Thím Hai à, nghe nói thím sắp được đi Mỹ phải không? Nghe nói qua Mỹ sướng lắm. Thím có đi, thím có dư quần áo cũ thì cho tôi xin thím vài cái nha”. Tôi nhìn má Năm ân cần: “Má Năm yên trí - Ra giêng con đi Mỹ rồi. Con sẽ tặng má Năm hai bộ bà ba con đang mặc”. Má Năm mừng mừng tủi tủi, tâm sự với tôi: - Tui có ba thằng con trai. Trước năm bảy lăm, chúng nó đang làm rẫy ở Củ Chi. Bỗng chiến tranh bùng nổ lớn, chính phủ bắt chúng nó đi lính ráo trọi, rồi chết hết cả. Rồi tui còn lại có đứa con gái út lấy chồng tận Bến Tre lận. Trước năm bảy lăm, chồng nó cũng lại đi theo Việt Cộng, để lại cho nó hai... đứa con. Nó ráng đi làm thuê nuôi con, chờ chồng về. Tới hồi ba mươi tháng tư 1975 - nó đợi riết, trông miết chả thấy chồng nó về. Nó nghe người ta nói chồng nó sẽ về. Rồi nó lại nghe người ta nói chồng nó bị chết rồi nên nó dẫn hai đứa con lên mạn Lâm Đồng hái chè thuê cho người ta. Tui theo nó cũng không được. Nên về Saigon đi ở đợ sống qua ngày. Đi ở riết rồi bây giờ không còn sức khỏe nữa, tôi đành đi ăn xin qua ngày. Ở đây tui thấy không có ai tử tế được bằng thím Hai đâu. Rồi thím Hai đi Mỹ, rồi có ai bán kế không? Tôi trấn an má Năm - má cứ an tâm - con qua Mỹ cũng sẽ mở tiệm phở. Vì nghe nói mở tiệm phở ở Mỹ lời lắm. Còn tiệm này thì thằng con lớn của con nó sẽ đứng bán. Vì nó lớn rồi, Mỹ không cho đi. Con trai con nó cũng hiền lành thương người lắm, má Năm cứ ra ăn như mọi khi. Tôi không ngờ khi tôi đi rồi, con tôi không mở bán phở nữa. Vì bán ế ẩm, lỗ vốn, nó dẹp tiệm làm nghề khác. Ăn được một cái Tết ở Mỹ xong, tôi có nhận được thư con tôi cho biết đã dẹp tiệm và cho tôi biết thêm là bà Năm đã chết. Bà Năm chết không có ai là con cái thân nhân, nên bà con lối xóm chung tiền chôn cất cho bà. Tôi suy nghĩ, một bà mẹ Việt Nam, má Năm có tới ba người con trai và một người con gái. Cuối đời bà vẫn lang thang, trên tay có cái tô sành đi ăn xin và chết tủi nhục. Rồi ngày tháng qua nhanh, tôi sống ở Mỹ cả năm rồi. Vốn liếng ít, mở một tiệm phở ở Mỹ không dễ gì. Nên mộng sang Mỹ mở tiệm kiếm đô la đã không thành. Tôi đi xin việc làm. Vốn tiếng Anh đã ít, lại mới từ một nước nghèo nàn lạc hậu qua, tôi đi xin việc hầu như chỗ nào cũng từ chối. May sao tôi có một người quen sống ở Mỹ từ năm 1975. Xin giùm cho tôi một việc ở Một nhà Retired - nhà Nursing home tư . Đó là việc làm về đồ giặt. Cũng trong thời gian làm ở Nursing home này , tôi đã nghe biết về nhiều bà mẹ Mỹ và đời sống của những người già trên xứ Mỹ . Đời sống của những bà mẹ Mỹ ở Nursing home thật vô cùng đầy đủ. So với ở Việt Nam thật khác xa một trời một vực. Mỗi bà đều có giường nệm trải ra trắng tinh, chăn mềm gối sạch sẽ. Mỗi phòng có T.V. để giải trí, có điện thoại, còi báo động, điện thoại liên lạc cho y tá - Rồi cầu tiêu nhà tắm, chỗ nào cũng sạch sẽ. Hàng ngày có housekeeper dọn phòng. Rồi phòng ăn, phòng vui chơi v.v... Tất cả đều đầy đủ và lịch sự. Khi nào cần, có y tá bác sĩ và có thuốc thang kịp thời. Những y tá phụ, giúp các bà tắm rửa nằm ngồi v.v... Hàng ngày tôi vào phòng để giao đồ cho các bà. Tên Mỹ khó nhớ đối với tôi nên tôi cứ phải nhẩm hoài. Riêng có một bà mẹ Mỹ mà tôi nhớ tên nhất và mỗi mùa xuân về trên Seattle khiến tôi nhớ tới bà nhất. Đó là bà Christine. Hàng ngày tôi vào phòng giao đồ, tôi để ý không thấy bà nằm trên giường nghỉ ngơi như những bà khác. Sau bữa điểm tâm buổi sáng, bà cứ ngồi yên trên xe lăn. Khi tôi vào bà bảo tôi giúp bà đẩy cái xe lăn sát vào thành cửa sổ kính, khung cảnh thiên nhiên bên ngoài thật tuyệt đẹp. Đó là một cái vịnh, màu nước xanh như ngọc và có những con tàu qua lại như con thoi. Rồi bầu trời xanh bao la, mây trắng từng đàn đuổi nhau. Xa xa là những dãy núi trắng màu tuyết phủ. Tôi thấy bà Christine không nằm nghỉ, ngồi sát bên cửa sổ, cả ngày ngồi trên chiếc xe lăn, ngó trân ra ngoài vịnh. Tự nhiên tôi thấy làm lạ và với giọng thân ái, tôi hỏi bà: “Chào má, má có muốn nằm nghỉ trên giường cho đỡ mỏi lưng không? Nếu má muốn con kêu y tá giúp má nha”. Hai ba lần đầu tôi hỏi bà như vậy, bà vẫn lặng lẽ không nói gì, không thèm trả lời tôi gì cả.Tôi thầm nghĩ ...Hay bà không thích người " Da vàng ?! " . Nhưng vì tính tôi hay thương người, nhất là đối với những người già như má tôi. Tôi thấy cứ ngồi lâu quá sẽ đau lưng và hại thận - Nên ngày nào tôi cũng hỏi bà Christine với giọng ân cần: “Chào má - con muốn giúp má nằm ra giường nghỉ cho đỡ đau lưng được không? Má ngồi nhiều không tốt cho sức khỏe của má. Con coi má như má con vậy mà. Má đồng ý thì con gọi y tá giúp má lên giường nghỉ ngơi ! ". Vẻ mặt bà có thay đổi đôi chút, bà nói có vẻ cảm tình. “Hãy để tao ngồi đây. Mày giúp tao là đẩy cái xe lăn cho tao xích gần vô cửa sổ thôi. Tao đang ngấm chiếc tàu kia kìa - tay bà chỉ ra ngoài vịnh ...- và tao đang trông thằng con trai tao về. Nó về nó sẽ take care cho tao. Nó đi qua Việt Nam, nó đi lính qua đó từ lâu rồi! Như một gáo nước lạnh giội vào người tôi. Tôi chợt nghĩ ra rồi. Bà má Christine đang trông đợi người con trai của bà đi lính ở Việt Nam trở về. Nhưng tôi không hiểu tại sao chiến tranh Việt Nam đã kết thúc lâu rồi. Tại sao giờ này bà không hay. Giờ này ai còn ai chết ở Việt Nam thì mọi gia đình Mỹ có con đi lính ở Việt Nam đều biết rồi chứ. Tôi yên lặng và suy nghĩ… Trước khi hết giờ làm việc, tôi ghé văn phòng gặp cô y tá chính ở đây. Tôi có kể lại chuyện bà má Christine cho cô nghe. Cô nói với tôi là bà Christine có một người con duy nhất đi lính qua Việt Nam, con trai bà đã tử trận từ lâu rồi. Chồng bà cũng chết từ lâu rồi. Hiện nay bà già, có lúc tỉnh lúc lẫn vậy đó. Cô nói dứt câu, bỗng đôi mắt cô như rớm lệ. Và nước mắt tôi cũng đã trào ra. Hai bà mẹ trên hai quê hương! Mỗi khi Xuân về trên đất Seattle, tôi đều nhớ tới hai bà mẹ: Má Năm ở Việt Nam và má Christine ở Nusring home . Tôi nghĩ thầm : " Má Christine ơi! Con hiểu. Không ai có thể thay thế hình bóng người con trai duy nhất của má ở trong lòng má được. Mùa xuân lại trở về, má vẫn cô đơn...- Vẫn ngồi đó trông con về !" - Bước ra về lòng tôi thêm trĩu nặng ...-Dù nhà nhà đang tưng bừng sắp đón Xuân , riêng tôi còn đang nghĩ tới Quê Hương VN ... với bao Bà Mẹ Già bên lề đường vớicái bát sành ...đi ăn xin ! THƯ KHANH - bài 1119 -( Seattle Xuân 1994 )( 1 )