Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 173

Thảo luận trong 'Lu Hà' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 3 10, 2020.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15


    “Đường tây bắc bao la nhung nhớ

    Quê hương giờ sương nhỏ mộ bia

    Nâu sồng tràng hạt trau tria

    Ngẫm mình từ độ xuất gia tu hành


    Ba năm trường mong manh áo vải

    Bụi trần gian tê tái quan san

    Mùi thiền quen cảnh bần hàn

    Người chê kẻ trách phàn nàn hiếu trung


    Lỗi cương thường mịt mùng bấn loạn

    Quỷ thần cười ngao ngán đường tu

    Ăn chay dưa muối đông thu

    Xuân hè uổng phí công phu cúng dường


    Lời đàm tiếu chán chường thiên hạ

    Chốn thị phi rệu rã tha phương

    Màn trời chiếu đất thê lương

    Bát cơm manh áo gió sương dật dờ“


    Dương Từ cứ canh cánh mãi trong lòng, không hiểu nổi vì sao do phép mầu nhiệm nào mà vợ mình ngót 60 tuổi đời mà vẫn sinh ra được hai đứa con trai? Chàng lại cho rằng vợ Đỗ Nương chăm đi lễ chùa cầu phật mà nhận được phúc báo này. Cho nên để trả ơn nhà Phật quyết xuống tóc đi tu được 3 năm rồi nhưng vẫn không an tâm tụng kinh gõ mõ, đầu óc vẫn còn nhiều tạp niệm nên chàng quyết xin phép Sư phụ cho đi chu du thiên hạ một chuyến để mở mang tầm mắt. Chàng đi về hướng tây bắc miền Tùng Lãnh thuộc địa phận Khiết Đan có môn phái võ và đạo tu tiên chân nhân.


    “Thân cò vạc bơ vơ xứ sở

    Quê hương người tạm bợ sớm khuya

    Vợ con xa cách chia lìa

    Nắng mưa tầm tã bên rìa rừng hoang


    Chống thiền trượng lang thang đây đó

    Khi cô đơn biết tỏ cùng ai?

    Chạnh lòng nghĩ chuyện khứ lai

    Vợ con bìu ríu ngày mai thế nào?


    Nghe lá rụng lao xao gió thổi

    Thấy tam kỳ chẳng vội làm chi

    Rùng rằng ngơ ngác chim di

    Đông tây nam bắc đường đi chẳng rành


    Thấp thoáng thấy liễu xanh bám cổng

    Dương Từ mừng lóng ngóng trông lên

    Cổ đình sừng sững trên nền

    Thanh Phong bảng hiệu ngang nhiên dưới trời“


    Đường đi rẽ ba ngả gọi là tam kỳ lộ ở một ngôi đình cổ. Dương Từ phân vân không biết đi ngả nào thì lại đọc tấm liễn tức tấm là một tấm biển có ghi dòng chữ:


    “Đường đi ba ngã người Chu khóc

    Tơ trắng hai màu ngã Địch than”

    Nỗi niềm nhân thế chứa chan

    Sòng đời đen trắng gian nan hiểm nghèo


    Xem liễn đối hắt heo cành liễu

    Rồi Dương Từ cũng hiểu ra ngay

    Đường ba bảy lối quắt quay

    Tơ kia dễ nhuộm ai hay lòng người


    Chí đã quyết thảnh thơi buông bỏ

    Lòng thạch kim chứng tỏ thiền môn

    Chớ nghe thiên hạ mà buồn

    Sân si cuồng dại bồn chồn gió trăng


    Chả mấy chốc thung thăng sườn núi

    Chốn thiên thai sầu tủi làm chi

    Dâu xanh suối mát rầm rì

    Lời ca non nỉ thầm thì bên tai…“


    Đường đi ba ngã hay ba ngả người Chu khóc. Chu tức Dương Chu, một triết gia đời Chiến quốc người nước Vệ, chủ trương thuyết vị ngã vì mình. Trong sách liệt sử có ghi chép:

    Người hàng xóm của Dương tử bị mất dê, phải nhờ họ hàng bà con lối xóm đi tìm giúp. Dương Từ hỏi:

    -Chỉ mất một con dê sao ông lại phải nhờ nhiều người đi tìm thế?

    Trả lời:

    -Vì có nhiều đường rẽ

    Khi tất cả trở về, Dương Tử hỏi:

    -Tìm được dê chưa?

    Trả lời:

    -Mất rồi!

    Hỏi:

    -Sao lại mất?

    Trả lời:

    -Trong đường lớn có nhiều đường rẽ, trong đường rẽ lại có nhiều đường rẽ khác. Nên không biết dê chạy đi ngả nào

    Dương Chu tự nhiên thay đổi sắc mặt, cả ngày không nói không cười. Câu chuyện này có ý nghĩa triết học: Gốc thì đồng nhưng ngọn thì lại khác. Vì vậy người đời cần thận trọng suy xét để khỏi nhầm lẫn.

    “ Tơ trắng hai màu ngã Địch than“. Họ Địch tức Mặc Địch một triết gia thời cổ đại ở nước Lỗ chủ trương thuyết “ Kiêm ái”. Trong đại từ điển hán văn Tố ty chép:

    ”Mặc Tử kiến luyện ty nhi khấp chi, vị kỳ khả dĩ hoàng, khả dĩ hắc”

    Mặc Địch thấy tơ luyện trắng mà khóc, vì nó có thể nhuộm thành màu đen, đỏ hay vàng.

    Cả hai câu thơ than vãn của Dương Chu và Mặc Định cho rằng con người có thể bị thay đổi biến hoá không lường không thể nào còn giữ được bản chất nguyên thủy sơ sinh của nó.



    Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

    cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 16


    “Dải Tần Hoài còn ai nức nở

    Lúc sang giàu cổ độ trăng soi

    Bến Hà Châu vẫn có đôi

    Thư cưu trống mái thuyền xuôi mái chèo“


    Tần hoài còn gọi là sông Dương tử con sông lớn nhất bên Tàu, nơi xây đập Tam Hiệp. Hà Châu cũng là một bến nổi tiếng bên sông. Nơi có giống chim thư cưu luôn một cặp sống mái như vợ chồng ân ái thủy chung vậy.


    „Khi có bậu cảnh nghèo hiu hắt

    Ngọn gió đông cắn hạt bí ngô

    Đò xưa đàn cá nhấp nhô

    Tình xuân hoa bướm lô xô qua về“


    Bậu qua là tiếng miền Nam Việt Nam lối xưng hô thân thiết của người trên đối với kẻ dưới hay thường là chồng với vợ.


    “Đêm trăng sáng say mê Lộng Ngọc

    Tiêu Sử mừng dạy học ống tiêu

    Chập chờn cánh phụng phiêu diêu

    Xe duyên kết chỉ cầu kiều bắc ngang“


    Theo liệt tiên truyện thì nàng Lộng Ngọc con gái út của Tần Mục Công rất xinh đẹp. Nàng say mê Tiêu Sử là một chàng trai có tài thổi sáo khiến cho chim phượng hoàng bay đến múa lượn. Sau đó hai người thành thân và cùng cưỡi phụng lên cõi tiên.


    “Dương Từ càng mơ màng ngây ngất

    Bước lại gần nghe thật ngậm ngùi

    Thấy hai cô gái mang gùi

    Lá dâu xanh mướt thơm mùi tóc mây


    Hoa diếp dại cỏ may xào xạc

    Há hốc mồm kinh ngạc hai nàng

    Ông sư lầm lũi bên đàng

    A Di Đà Phật nhẹ nhàng hỏi thăm


    Chùa Linh Diêu xa xăm vạn nẻo

    Kỳ lộ nhiều vắt vẻo phương nào?

    Hai cô gái nhỏ thì thào

    Con nai ngơ ngác bướm đào ngây thơ


    Chị em tôi dại khờ sơn nữ

    Đạo ông bà gìn giữ tổ tiên

    Thôn trang vui cảnh điền viên

    Mẹ cha sớm tối bạc tiền cần chi


    Thầy tu muốn hỏi gì sao biết

    Tìm vãi bà thân thiết ni cô

    Đường đi lắt léo chi mô

    Nhà Khương giống ấy ô hô phấn hồng“


    Dương Từ đang choáng ngợp bởi cảnh non nước sơn thủy hữu tình bất ngờ gặp hai cô sơn nữ nhưng lại tỏ ra lạnh nhạt với chàng, không chịu chỉ đường cho chàng vì chàng là một nhà sư, đã thoát tục chẳng màng gì đến chuyện ân ái nhục dục. Hai cô còn trêu ghẹo chàng nên đi tìm ni cô hay bà vãi mà hỏi đường.


    “Mấy đường chay không không sắc sắc

    Trẻ rong chơi phước bạc tu trì

    Có câu lão kỹ vi ni

    Thúy Kiều lạc lối má mì lầu xanh


    Không biết lối thôi đành chịu vậy

    Đứng thở than chán ngấy cảnh đời

    Trọc đầu chi để tiếng cười

    Tấm thân sư vãi chơi vơi nẻo trần“


    “Lão kỹ vi ni“ là câu nói trịnh thượng ngạo mạn của những nhà nho cổ hủ trái hẳn với cái đức khiêm nhường tôn trọng lễ nghi của Khổng Tử, giải nghĩa là:

    -“Đĩ già đi tu“

    Thân trọc có nghĩa là đầu thì cạo trọc hết tóc, còn thân thì trần trụi chẳng có cái quái gì dứt bỏ hết việc đời mọi chuyện yêu thương ân ái khổ đau muộn phiền…


    “Từ liều lĩnh tần ngần đi tới

    Đường gập ghềnh chẳng vội đông nam

    Bảng đề rõ Bạch Vân Nham

    Một tòa miếu cổ trăng rằm trống trơn


    Đói rách lòng không hờn mẹ ghẻ

    Lạnh đau dạ chẳng trách cha lành

    Thấy câu liễn đối song hành

    Thương con hiếu thảo ngọn ngành xét suy


    Bao trắc trở gian nguy nểm trải

    Muốn vào coi lại ngại chiêm bao

    Tượng thờ thần ở phương nào?

    Văn hay chữ tốt đi sao cho đành”


    Câu liễn đối đó viết về Mẫn Tử có tên gọi là Mẫn Tốn tự là Tử Khiên người nước Lỗ kém ông Khổng Tử khoảng 50 tuổi, tính tình liêm khiết và rất hiếu thảo. Ông nổi tiếng về đức hạnh nên được dự vào khoa đức hạnh nơi cửa Khổng còn được liệt vào trong nhị thập tứ hiếu. Khi còn nhỏ ông bị bà mẹ ghẻ ngược đãi. Những ngày mùa đông bà cho con đẻ mặc áo vải bông ấm, còn bắt ông mặc áo lau nên trời gía lạnh hai tay tê cóng toàn thân run lên lập cập không đẩy xe cho cha đi được. Người cha thấy vậy biết rõ tình trạng mẹ ghẻ con chồng nên tỏ ra tức giận, toan đuổi mẹ ghẻ đi thì Mẫn Tử Khiên quỳ xuống van xin cha đừng đuổi mẹ ghẻ đi, ông thưa với cha rằng:

    -Nếu cha để dì ghẻ ở lại thì chỉ mình con chịu rét, còn nếu cha đuổi dì ghẻ đi thì chẳng những con và cả hai em con cũng phải chịu rét

    Người cha suy nghĩ lại, đúng như lời Tử Khiên nói mà thuật lại lời nói của Tử Khiên cho bà vợ kế. Bà cảm động hồi tâm mà thương mến Tử Khiên đối xử công bằng như con ruột của mình vậy.


    10.3.2020 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share